KẾ HOẠCH PHÒNG, CHỐNG THIÊN TAI NĂM 2023 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG

Ngày đăng: 11/10/2022

 

KẾ HOẠCH

Phòng, chống thiên tai năm 2023 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông

          Thiên tai là những hiện tượng thiên nhiên cực đoan, là sự cố bất khả kháng và có những lúc nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người. Điều đáng nói là các loại hình thiên tai ngày càng diễn biến trái quy luật, trước đây diễn ra theo mùa, còn giờ đây xuất hiện quanh năm, kể cả trong những tháng được xem là hiếm khi xuất hiện. Trong những năm qua, dưới tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai trên địa bàn tỉnh ngày càng diễn biến phức tạp, bất thường. Hạn hán, mưa lớn, lũ, ngập lụt, sạt lở đất, giông lốc, bão, mưa đá ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống sinh hoạt của người dân...

Để chủ động và đảm bảo sự thống nhất trong công tác tổ chức phòng, chống, chỉ huy ứng phó kịp thời, hiệu quả, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra. Đồng thời, đẩy nhanh tiến độ phục hồi, tái thiết sau thiên tai góp phần ổn định đời sống, sản xuất của người dân trên địa bàn tỉnh và góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, UBND tỉnh Đắk Nông ban hành Kế hoạch Phòng, chống thiên tai năm 2023 trên địa bàn tỉnh, cụ thể như sau:

I. CƠ SỞ PHÁP LÝ

- Căn cứ Luật Phòng, chống thiên tai ngày 19 tháng 6 năm 2013 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật đê điều ngày 17 tháng 6 năm 2020;

-  Căn cứ Luật Thủy lợi ngày 19 tháng 6 năm 2017;

- Căn cứ Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24/3/2020 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai;

- Căn cứ Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 18/6/2018 của Chính phủ về công tác phòng, chống thiên tai;

- Căn cứ Nghị định số 78/2021/NĐ-CP ngày 01/8/2021 của Chính phủ về việc thành lập và quản lý Quỹ phòng, chống thiên tai;

- Căn cứ Nghị định số 66/2021/NĐ-CP ngày 06/7/2021 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều;

- Căn cứ Quyết định số 987/QĐ-TTg ngày 09/7/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24/3/2020 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai;

- Căn cứ Quyết định số 18/2021/QĐ-TTg ngày 22/4/2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định về dự báo, cảnh báo, truyền tin và cấp độ rủi ro thiên tai;

- Quyết định số 379/QĐ-TTg ngày 17/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Quốc gia phòng, chống thiên tai đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050;

- Căn cứ Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 15/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch Phòng, chống thiên tai quốc gia đến năm 2025

- Căn cứ Thông tư số 02/2021/TT-BNNPTNT ngày 07/6/2021 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hướng dẫn xây dựng kế hoạch phòng, chống thiên tai các cấp ở địa phương;

- Căn cứ Thông tư số 85/2020/TT-BTC ngày 01/10/2020 của Bộ Tài chính Quy định việc quản lý, sử dụng kinh phí phục vụ hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai và Ban Chỉ huy phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn các cấp;

- Căn cứ Chương trình số 60-Ctr/TU ngày 20/8/2020 của Ban thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai;

- Căn cứ Nghị quyết số 09/2021/NQ-HĐND ngày 20/8/2021 của Hội đồng nhân dân tỉnh Quy định về mức chi phục vụ hoạt động của Ban chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn các cấp trên địa bàn tỉnh Đắk Nông;

         - Căn cứ Quyết định số 2000/QĐ-UBND ngày 31/12/2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh về Kế hoạch Phòng, chống thiên tai trên địa bàn tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2021-2025;

         - Căn cứ Quyết định số 1544/QĐ-UBND ngày 16/9/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông về việc cập nhật, bổ sung nhiệm vụ thực hiện Kế hoạch Phòng, chống thiên tai đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông;

- Căn cứ Quyết định số 1238/QĐ-UBND ngày 19/8/2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông ban hành Kế hoạch triển khai Quyết định số 987/QĐ-TTg ngày 09/7/2020 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh Đắk Nông;

         - Căn cứ Kế hoạch số 413/KH-UBND ngày 10/6/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện Chiến lược Quốc gia phòng, chống thiên tai đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông;

         - Căn cứ Kế hoạch số 577/KH-UBND ngày 20/8/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh triển khai Quyết định số 553/QĐ-TTg ngày 06/4/2021 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.

         II. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU

  1. Mục đích

- Xác định những nhiệm vụ chủ yếu trong công tác phòng, chống thiên tai cần tập trung thực hiện trong năm 2023 nhằm triển khai Chiến lược quốc gia về phòng, chống thiên tai; nâng cao năng lực phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu để chủ động ứng phó, giảm thiệt hại do thiên tai gây ra.

- Tổ chức triển khai thực hiện các quy định pháp luật về phòng, chống thiên tai. Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng các chính sách về phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh.

- Nâng cao năng lực xử lý tình huống, sự cố, chỉ huy, điều hành tại chỗ để ứng phó phòng, chống thiên tai có hiệu quả của các cấp, các ngành; giảm thiểu thiệt hại về người, tài sản của Nhà nước và người dân. Đặc biệt là hạn hán, lũ, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất, mưa lớn, giông sét, sạt lở bờ sông…

- Tăng cường thông tin, tuyên truyền, cảnh báo, hướng dẫn các biện pháp phòng, chống thiên tai kịp thời đến cộng đồng dân cư; nâng cao nhận thức cộng đồng và quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng, phát huy ý thức tự giác, chủ động phòng, chống thiên tai của toàn dân trên địa bàn tỉnh.

- Nâng cao nhận thức về thiên tai, năng lực ứng phó thiên tai cho đội ngũ làm công tác phòng, chống thiên tai, cán bộ chính quyền cơ sở và người dân vùng thường xuyên chịu tác động của thiên tai, góp phần xây dựng cộng đồng an toàn trước thiên tai, có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu; chủ động phòng ngừa, tích cực tham gia vào công tác phòng, chống thiên tai của người dân nhằm góp phần thực hiện tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới, giảm thiểu thiệt hại về người, tài sản, môi trường do thiên tai gây ra.

- Tăng cường quản lý nhà nước, nâng cao năng lực, tính chủ động của toàn xã hội, sử dụng hiệu quả các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống thiên tai; kết hợp giữa phòng, chống thiên tai với phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng, giảm thiểu rủi ro thiên tai.

- Khai thác vận hành các hồ đập thủy lợi, thủy điện trên địa bàn tỉnh, vừa đảm bảo phòng lũ, an toàn hạ du, vừa phục vụ sản xuất, sinh hoạt.

- Thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn, thực hiện đồng bộ các hoạt động phòng, chống thiên tai gắn với phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư.

- Từng bước hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng bộ với phát triển cơ sở hạ tầng khác, gắn với xây dựng nông thôn mới.

- Làm cơ sở để tổ chức thực hiện các hoạt động phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn trên địa bàn tỉnh.

2. Yêu cầu

- Kế hoạch phải phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch Phòng, chống thiên tai quốc gia đến năm 2025; dự báo, cảnh báo; tình hình thực tế và nguồn lực của tỉnh.

- Quán triệt và thực hiện có hiệu quả phương châm “bốn tại chỗ” (chỉ huy tại chỗ; lực lượng tại chỗ; phương tiện, vật tư tại chỗ; hậu cần tại chỗ) và “ba sẵn sàng” (chủ động phòng tránh, đối phó kịp thời, khắc phục khẩn trương và có hiệu quả).

- Phòng, chống thiên tai là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của toàn dân, toàn xã hội với phương châm nhà nước và người dân cùng làm. Sử dụng hiệu quả nguồn lực của nhà nước, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh; trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tổ chức và cá nhân chủ động, cộng đồng hỗ trợ, giúp nhau. Thực hiện phương châm "bốn tại chỗ", đề cao vai trò chủ động tại cơ sở và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.

- Nội dung phòng, chống thiên tai phải được lồng ghép trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, phát triển kinh tế - xã hội; kế hoạch phòng, chống thiên tai phải phối hợp giữa khôi phục và nâng cấp sau thiên tai với yêu cầu xây dựng lại tốt hơn; phải kết hợp giải pháp công trình và phi công trình; đầu tư xây dựng công trình phòng, chống thiên tai phải kết hợp đa mục tiêu, có trọng tâm, trọng điểm. Thực hiện các giải pháp quản lý tổng hợp, đồng bộ theo hệ thống, lưu vực, liên ngành, liên vùng; ứng dụng khoa học công nghệ kết hợp với công nghệ truyền thống.

- Phòng, chống thiên tai trên cơ sở ứng dụng công nghệ tiên tiến; kế thừa, phát huy những kinh nghiệm truyền thống và thúc đẩy hợp tác quốc tế trong ứng dụng khoa học và công nghệ nhàm giảm thiểu rủi ro thiên tai.

- Phòng chống thiên tai phải thực hiện theo phân công, phân cấp, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, phù hợp với cấp độ rủi ro thiên tai.

III. ĐẶC ĐIỂM DÂN SINH, KINH TẾ XÃ HỘI

1. Đặc điểm địa lý tự nhiên

Đắk Nông là tỉnh nằm ở cửa ngõ phía Nam của Tây Nguyên, có diện tích tự nhiên 6.509,3 km², với 8 đơn vị hành chính gồm: thành phố Gia Nghĩa, huyện Cư Jút, huyện Đắk Mil, huyện Krông Nô, huyện Đắk Song, huyện Tuy Đức, huyện Đắk R’lấp, và huyện Đắk Glong. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk; phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Lâm Đồng; phía Nam giáp tỉnh Bình Phước và phía Tây giáp Vương Quốc Campuchia với đường biên giới dài khoảng 141 km qua hai cửa khẩu là cửa khẩu Đắk Puer thuộc huyện Đắk Mil và Bu Prăng thuộc địa phận huyện Tuy Đức. Với vị trí địa lý nằm ở phía Nam của khu vực Tây Nguyên, cách đường bờ biển hơn 120km nên tỉnh Đắk Nông rất ít khi bị ảnh hưởng bởi các loại hình thiên tai có sức tàn phá lớn như: nước biển dâng, bão, siêu bão mà chỉ bị tác động bởi các loại hình thiên tai mang tính đặc thù của khu vực như: hạn hán, mưa lớn, ngập lụt cục bộ, lũ quét, giông lốc sét, sạt lở đất…

2.  Đặc điểm khí hậu, thủy văn

Khí hậu tỉnh Đắk Nông vừa mang tính chất khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm, vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam khô nóng. Khí hậu có 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 10, lượng mưa mùa mưa chiếm tới 80÷90% tổng lượng mưa năm; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa không đáng kể.

Nhiệt độ trung bình năm 22-230C, nhiệt độ cao nhất 350C, tháng nóng nhất là tháng 4. Nhiệt độ thấp nhất 140C, tháng lạnh nhất vào tháng 12. Tổng số giờ nắng trong năm trung bình 2.000-2.300 giờ.

Lượng mưa trung bình năm từ 2.200-2.400 mm, lượng mưa cao nhất 3.000 mm. Tháng mưa nhiều nhất vào tháng 8, 9; mưa ít nhất vào tháng 1, 2. Độ ẩm không khí trung bình 84%. Độ bốc hơi mùa khô 14,6-15,7 mm/ngày, mùa mưa 1,5-1,7 mm/ngày.

Hướng gió chủ yếu mùa mưa là Tây Nam, hướng gió chủ yếu mùa khô là Đông Bắc, tốc độ gió bình quân 2,4 -5,4 m/s, hầu như không có bão nên không gây ảnh hưởng đối với các cây trồng dễ gãy, đổ như cà phê, cao su, tiêu…

Đắk Nông có mạng lưới sông suối phân bố tương đối đều khắp. Các sông chính chảy qua địa phận tỉnh gồm:

+ Sông Srêpôk: Do hai nhánh sông Krông Nô và Krông Na hợp lưu với nhau tại thác Buôn Dray (huyện Krông Nô). Đoạn chảy qua tỉnh nằm trên địa phận huyện Cư Jút, đoạn này lòng sông tương đối dốc, chảy từ cao độ 400 m ở hợp lưu xuống cao độ 150 m ở biên giới Campuchia. Khi chảy qua địa bàn tỉnh Đắk Nông do kiến tạo địa chất phức tạp, lòng sông trở nên hẹp và dốc nên tạo ra các thác nước lớn hùng vĩ có tiềm năng thủy điện mang lại giá trị kinh tế. Ngoài ra, còn nhiều suối nhỏ khác đổ ra sông Srêpôk như: suối Đắk Gang, Đắk Nir, Dray H'Linh, Ea Tuor, Đắk Ken, Đắk Lâu, Đắk Sor cũng đều là bắt nguồn của sông Srêpôk.

+ Sông Krông Nô: Bắt nguồn từ dãy núi cao trên 2.000 m phía Đông Nam tỉnh Đắk Lắk, chảy qua huyện Krông Nô. Sông Krông Nô có ý nghĩa rất quan trọng đối với sản xuất và đời sống dân cư trong tỉnh. Còn nhiều suối lớn nhỏ khác phân bố khá đều khắp trên địa bàn huyện Krông Nô, Cư Jút như suối Đắk Mâm, Đắk Rô, Đắk Rí, Đắk Nang.

+ Sông Đồng Nai dòng chảy chính không chảy qua địa phận Đắk Nông nhưng có nhiều sông suối thượng nguồn. Đáng kể nhất là: Suối Đắk Rung bắt nguồn từ khu vực Thuận Hạnh, chảy qua địa bàn Đắk Nông với chiều dài 90 km; Suối Đắk Nông có lưu lượng trung bình 12,44 m3/s, lưu lượng lớn nhất 87,8 m3/s và nhỏ nhất 0,5 m3/s. Môduyn dòng chảy lớn nhất 338 m3/s/km2, trung bình 47,9 m3/s/km2, nhỏ nhất 1,9 m3/s/km2; Suối Đắk R’lấp có diện tích lưu vực 55,2 km2, Suối Đắk R'Tih …

Trên địa bàn tỉnh còn có nhiều hồ, đập có tác dụng giữ nước như Hồ Tây, hồ Trúc, hồ Ea T'Linh, hồ Đắk Đrông ...

Mạng lưới sông suối, hồ ao dày đặc đó rất thuận tiện cho việc xây dựng các công trình thủy lợi, thuỷ điện nhỏ, cung cấp nước cho các ngành kinh tế và sinh hoạt dân cư.

Sông suối trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có tiềm năng thủy điện dồi dào. Hệ thống sông Srêpôk có trữ năng kinh tế được đánh giá khoảng 2,6 tỉ KWh. Hệ thống suối đầu nguồn của các sông Đồng Nai, Krông Nô, Srêpôk có thể xây dựng nhiều công trình thủy điện lớn. Ngoài ra, mạng lưới suối nhỏ trên khắp địa bàn tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển thủy điện nhỏ phục vụ sản xuất và sinh hoạt cho các buôn làng vùng cao khó khăn trong việc xây dựng điện lưới.

3. Đặc điểm địa hình, địa chất

Đắk Nông nằm trọn trên cao nguyên M’Nông, với độ cao trung bình từ 600 mét đến 700 mét so với mặt nước biển, cao nhất là đỉnh Tà Đùng với độ cao lên đến 1.982 mét. Nhìn chung địa hình của tỉnh Đắk Nông đa dạng, phong phú và bị chia cắt mạnh, có sự xen kẽ giữa các núi cao, với các cao nguyên rộng lớn, dốc thoải, lượn sóng, khá bằng phẳng xen kẽ các dải đồng bằng thấp trũng.

Địa hình thung lũng là vùng đất thấp phân bố dọc sông Krông Nô, Srêpôk, thuộc khu vực các huyện Cư Jút, Krông Nô. Địa hình tương đối bằng phẳng, có độ dốc từ 0-30, đối với những khu vực này loại hình thiên tai thường xuyên bị tác động là hạn hán vào mùa khô và ngập lụt vào mùa mưa.

Địa hình cao nguyên chủ yếu ở Đắk Glong, Đắk Mil, Đắk Song; độ cao trung bình trên 800 m, độ dốc trên 150. Đây là khu vực thường xuyên bị tác động bởi giông, lốc, sét.

Địa hình núi phân bố trên địa bàn huyện Đắk R’lấp, độ dốc trên 150. Đây là khu vực địa hình chia cắt mạnh và có độ dốc lớn, thường xuyên bị tác động bởi hạn hán và lũ quét.    

4. Đặc điểm dân số

- Dân số trung bình năm 2021 của tỉnh là 664.416 người, tăng 26.509 người, tương đương tăng 4,16% so với năm 2020; trong đó dân số thành thị: 103.997 người, chiếm 16,25%; dân số nông thôn: 556.439 người, chiếm 83,75%; dân số nam: 340.284 người, chiếm 51,22%; dân số nữ: 324.132 người, chiếm 48,78%. Tổng tỷ suất sinh năm 2021 đạt 2,68 con/phụ nữ, tiếp tục duy trì ở mức sinh thay thế. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 14‰; tỷ suất sinh thô là 19,4‰; tỷ suất chết thô là 5,4‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi là 23,5‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi là 35,7‰. Tuổi thọ trung bình của dân số toàn tỉnh năm 2019 là 70,3 năm, trong đó nam là 67,5 năm và nữ là 73,2 năm[1].

- Đắk Nông là tỉnh có cộng đồng dân cư gồm hơn 40 dân tộc cùng sinh sống. Cộng đồng dân cư Đắk Nông được hình thành từ: Đồng bào các dân tộc tại chỗ như M'nông, Mạ, Ê đê, Khmer…; đồng bào Kinh sinh sống lâu đời trên Tây Nguyên và đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc mới di cư vào lập nghiệp như: Tày, Thái, Mường, Nùng, Dao, H'Mông ....

Dân tộc kinh chiếm tỷ lệ khoảng 65,5%; M'nông chiếm 9,7%, các dân tộc khác chiếm tỷ lệ nhỏ; cá biệt có những dân tộc chỉ có một người sinh sống ở Đắk Nông như Cơ Tu, Tà Ôi, Hà Nhì, Phù Lá, Chứt.

- Mật độ dân số trung bình toàn tỉnh là 102,07 người/km2. Dân cư phân bổ không đều trên địa bàn các huyện, nơi đông dân cư chủ yếu tập trung ở các trung tâm xã, thị trấn huyện lỵ, ven các trục đường quốc lộ, tỉnh lộ. Trong đó mật độ dân số cao nhất là thành phố Gia Nghĩa 240,10 người/km2 và thấp nhất là các huyện Đắk Glong và Tuy Đức với mật độ lần lượt là 50,36 người/km2 và 59,26 người/km2.

5. Đặc điểm kinh tế - xã hội

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) sơ bộ năm 2021 theo giá so sánh năm 2010 đạt 20.727 tỷ đồng; tăng 8,63% so với năm 2020; trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,45%, đóng góp 1,77 điểm phần trăm vào mực tăng chung, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 35,91%, đóng góp 5,67 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 1,93%, đóng góp 0,77 điểm phần trăm; thuế trừ nợ cấp sản phẩm tăng 9,38%, đóng góp 0,42

Cơ cấu nền kinh tế đã có sự chuyển dịch, năm 2021 tỷ trọng ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 38,11%; tỷ trọng khu vực công nghiệp – xây dựng là 18,74%; khu vực dịch vụ là 38,69%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm là 4,46%. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn đối với nền kinh tế của tỉnh.

Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2021 ước tính đạt 14.112,78 tỷ đồng, giảm 93.134 tỷ đồng so với năm 2020, trong đó: Thu nội địa đạt 2.893,66 tỷ đồng (chiếm 20,50% tổng thu), tăng 20,47%; thu ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 607,96 tỷ đồng (chiếm 4,30% tổng thu), tăng 421,06%. Hiện nay, tỉnh Đắk Nông vẫn chủ yếu dựa vào nguồn thu bổ sung từ ngân sách cấp trên cấp, năm 2021 thu từ nguồn này ước đạt 7.877,58 tỷ đồng (chiếm 55,82% tổng thu), giảm 10,66% so với năm trước.

Tổng chi ngân sách Nhà nước năm 2021 ước tính đạt 16.627,02 tỷ đồng, giảm 5,68% so với năm 2020, trong đó: Chi đầu tư phát triển ước đạt 2.300 tỷ đồng (chiếm 13,84% tổng chi), giảm 24,85%; chi thường xuyên ước đạt 102 5.013,85 tỷ đồng (chiếm 30,15%), giảm 14,28%. Trong tổng chi thường xuyên, chi sự nghiệp giáo dục đào tạo ước đạt 1.956,05 tỷ đồng (chiếm 11,76% tổng chi), tăng 1,98%; chi sự nghiệp y tế, dân số và kế hoạch hóa gia đình ước đạt 619,32 tỷ đồng (chiếm 3,72% tổng chi), tăng 6,53%; chi quản lý hành chính, Đảng, đoàn thể ước đạt 1.284,47 tỷ đồng (chiếm 7,73% tổng chi), tăng 5,35%;..[2]

Sự phân bố của các ngành nghề kinh tế:

- Ngành nông nghiệp phân bố đều khắp trên địa bàn các huyện, thành phố Gia Nghĩa. Trong đó địa bàn bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi thiên tai là các huyện: Cư Jút, Krông Nô, Đắk Mil, Tuy Đức.

- Ngành công nghiệp phân bố tập trung ở huyện Đắk R’lấp và một số cụm công nghiệp phân bố rãi rác ở các huyện khác.

- Ngành dịch vụ tập trung nhiều ở thành phố Gia Nghĩa và các thị trấn thuộc huyện.

6. Đặc điểm văn hóa xã hội

Đặc điểm văn hóa, xã hội của tỉnh Đắk Nông tương đối đa dạng, có những nét đặc thù của khu vực Tây Nguyên nói chung và của tỉnh Đắk Nông nói riêng, phân biệt với các vùng văn hóa khác trên cả nước. Đặc điểm văn hóa truyền thống của tỉnh Đắk Nông là văn hóa mang tính cộng đồng, văn hóa mang tính địa bàn, văn hóa mang tính chất sinh hoạt lễ thức. Đắk Nông là vùng đất sinh sống lâu đời của các dân tộc thiểu số tại chỗ M’nông, Mạ, Ê đê… trải dài trên một địa bàn rộng lớn. Đồng thời, đây cũng là vùng đất quần tụ của cư dân từ nhiều vùng miền về sinh cơ, lập nghiệp, đã làm cho văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh thêm đa sắc màu. Các buôn, bon đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ M’nông, Mạ, Ê đê… là những vùng đất có nhiều loại hình di sản văn hoá vật thể và phi vật thể quý báu, đặc sắc, độc đáo như diễn tấu cồng chiêng, các loại nhạc cụ truyền thống, hát kể Sử thi (Ót Ndrong), các nghi lễ, Lễ hội, dệt thổ cẩm, đan lát… các làn điệu dân ca (Nau Mpring), dân vũ, sinh hoạt cộng đồng, các điệu múa dân gian. Đặc biệt năm 2005 “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Sử thi (Ot N’drong) của người M’nông tỉnh Đắk Nông được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia năm 2014 và Nghệ thuật trình diễn Nau M’Pring (dân ca) của người M’nông tỉnh Đắk Nông được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia năm 2020. Nhiều nét văn hóa khá nguyên thủy và thô sơ chưa chịu ảnh hưởng của các nền văn minh khác. Tuy nhiên do quá trình di dân và phân bố lại dân cư, nên càng ngày tỉ lệ người dân tộc bản địa càng thấp so với người kinh, phạm vi cư trú cũng bị hẹp dần. Đặc biệt cùng với sự giao lưu mạnh mẽ giữa các dân tộc, văn hóa người kinh đang ảnh hưởng sâu rộng đến các vùng dân tộc, vì vậy cần phải có các biện pháp bảo tồn các giá trị văn hóa độc đáo của các dân tộc bản địa, khắc phục mặt trái của quá trình đồng hóa tự nhiên này.

7. Cơ sở hạ tầng phòng, chống thiên tai

- Toàn tỉnh có 283 công trình thủy lợi. Trong đó có 265 hồ chứa, đập dâng và 9 trạm bơm phục vụ nước tưới cho 48.265 ha/215.091 ha, đạt 22,44% diện tích. Trong đó: Tưới lúa (cả năm): 7.162 ha; Tưới cây công nghiệp, cây ăn quả (cà phê, hồ tiêu): 33.615 ha; Một số cây trồng khác: 7.488 ha.

Ngoài các công trình thủy lợi ra, trên địa bàn tỉnh còn có 21 công trình hồ chứa thủy điện và các ao hồ, sông suối, giếng đào, giếng khoan phục vụ tưới cho khoảng 100.000 ha. Tổng các nguồn nước cung cấp tưới trên địa bàn tỉnh chỉ đảm bảo tưới cho khoảng 69% diện tích cây trồng, vẫn còn 31% diện tích cần tưới chưa được đáp ứng, đặc biệt là vào nửa cuối vụ Đông Xuân tại các huyện phía Bắc của tỉnh gồm: huyện Cư Jút, huyện Krông Nô, huyện Đắk Mil và một số khu vực xa nguồn nước ở các huyện khác. Mặt khác các công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh đã được xây dựng từ lâu, hiện nay đang xuống cấp nên không đảm bảo năng lực tưới thiết kế, đồng thời cũng là mối hiểm họa cho dân cư vùng hạ lưu nếu xảy ra sự cố.

Các địa phương trong tỉnh có hàng trăm km kênh mương nội đồng do cấp huyện, xã quản lý để phục vụ tưới cho lúa, hoa màu, cây công nghiệp và các loại cây trồng khác.

- Trên địa bản tỉnh hiện có 251 công trình cấp nước tập trung nông thôn (trong đó có 248 công trình sử dụng nguồn nước ngầm, 03 công trình sử dụng nguồn nước mặt). Đa số các công trình được xây dựng trong khoảng thời gian mới tách tỉnh, các công trình đều có điểm chung là công suất nhỏ, hệ thống cấp nước đơn sơ. Đến nay chỉ còn khoảng 81 công trình đang hoạt động, chiếm 33,06%. Tỷ lệ người dân nông thôn được cấp nước hợp vệ sinh đạt 91%[3]. Tuy nhiên, tỷ lệ số hộ dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh chưa thật sự ổn định, thường biến động, chịu ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện khí hậu, thiên tai.   Công trình cấp nước miền núi chủ yếu là hình thức lấy nước tự chảy bằng đập dâng, hệ thống đường ống dẫn đến bể chứa nước hoặc cụm vòi công cộng, không thu tiền sử dụng nước, thường thiếu bền vững. Các hệ thống cấp nước vùng đồng bằng cấp đến hộ gia đình có đồng hồ đo nước và thu phí sử dụng nước, có tổ chức quản lý vận hành công trình. Các công trình cấp nước thường bị vỡ, trôi ống khi có lũ ống, lũ quét và mưa lớn; công tác khắc phục sẽ rất chậm, cấp nước sạch bị gián đoạn.

- Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, hiện nay có mạng lưới trạm khí tượng thủy văn chuyên dụng rất thưa thớt, chỉ có 2 trạm khí hậu đo các yếu tố nhiệt độ, tốc độ gió, bốc hơi, nắng, độ ẩm đó là Đắk Nông và Đắk Mil. Ngoài ra còn có 03 trạm quan trắc mực nước gồm: trạm Đức Xuyên ở sông Krông Nô, trạm Cầu 14 ở sông Ea Krông, trạm Đắk Nông ở sông Đắk Nông. Ban chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh đã triển khai lắp đặt 40 trạm đo mưa tự động cảnh báo sớm tại cộng đồng và 15 trạm đo mực nước trên các sông suối trên địa bàn tỉnh để phục vụ cho công tác phòng, chống thiên tai; 02 trạm giám sát, cảnh báo ngập lụt tự động.

- Truyền tin về thiên tai: Mạng lưới bưu chính viễn thông với đủ các loại hình dịch vụ, điện thoại cố định, điện thoại di động mạng Vinaphone, Mobiphone, Viettel, thông tin di động sóng ngắn Codan, thông tin chuyên dùng Inmarsat có thể đáp ứng nhanh chóng thông tin, liên lạc; bảo đảm thông tin liên lạc chỉ huy, điều hành phòng chống thiên tai trên toàn tỉnh và phục vụ các nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên do địa bàn bị chia cắt, nên vẫn có một số khu vực sóng viễn thông yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân.

- Hệ thống giao thông phục vụ cứu hộ, cứu nạn: Hệ thống giao thông đường bộ xuyên suốt từ tuyến Quốc lộ đến tỉnh lộ, giao thông nông thôn, đến cả vùng sâu vùng xa, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phòng chống giảm nhẹ thiên tai. Tuy nhiên hiện nay nhiều tuyến đường đang bị xuống cấp, không đảm bảo kịp thời trong công tác phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn.

- Nhà tránh trú thiên tai cộng đồng: Trên địa bàn tỉnh không có nhà tránh trú thiên tai cộng đồng, mà chủ yếu sử dụng trụ sở các cơ quan nhà nước, trường học, cơ sở y tế, nhà văn hóa, cơ sở tôn giáo làm nơi tránh trú khi xảy ra thiên tai.

8. Cơ sở hạ tầng khác

8.1. Hệ thống đường giao thông

Mạng lưới giao thông của tỉnh Đắk Nông chủ yếu là đường bộ, chưa có đường sắt và đường hàng không.

- Quốc lộ: Có 3 tuyến đi qua địa bàn tỉnh, với tổng chiều dài là 496 Km, phần lớn đã được nhựa hóa, nối tỉnh Đắk Nông với các tỉnh Tây Nguyên và với các tỉnh phía Nam. Trong đó tuyến đường Hồ Chí Minh (QL.14) qua địa bàn tỉnh dài 153 Km, đi qua địa bàn các huyện Cư Jút, Đắk Mil, Đắk Song, Đắk R’lấp và thành phố Gia Nghĩa; tuyến đường QL.14C qua địa bàn tỉnh dài 169Km, đi qua địa bàn các huyện Đắk Mil, Đắk Song, Tuy Đức (đi cửa khẩu Bu Prăng); tuyến đường Quốc lộ 28 qua địa bàn tỉnh dài 174 Km, đi qua địa bàn các huyện Đắk Glong, Krông Nô, Cư Jút và thành phố Gia Nghĩa.

- Tỉnh lộ: Gồm có 6 tuyến với tổng chiều dài 226 Km, gồm các tuyến: Tỉnh lộ 681 (ngã ba thị trấn Kiến Đức, huyện Đắk R’Lấp - Ngã ba Đồn 8, huyện Tuy Đức dài 36 Km; Tỉnh lộ 682 (ngã ba xã Nam Bình, huyện Đắk Song - Ngã ba Đức Mạnh, huyện Đắk Mil) dài 24 Km; Tỉnh lộ 683 (trung tâm huyện Đắk Mil - thị trấn Đắk Mâm, huyện Krông Nô) dài 36 Km; Tỉnh lộ 684B (ngã ba đèo 52 - cầu Đắk R’Măng, xã Quảng Hòa, huyện Đắk Glong) dài 27 Km; Tỉnh lộ 685 (ngã ba thị trấn Kiến Đức, huyện Đắk R’lấp - Cai Chanh, xã Đắk Ru, huyện Đắk R’lấp) dài 43 Km; Tỉnh lộ 686 (trung tâm xã Đắk Buk Sor, huyện Tuy Đức - xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong) dài 60 Km. Hệ thống các đường tỉnh lộ đã được nhựa hoá 100%, tuy nhiên đến nay một số tuyến đã bị hư hỏng, xuống cấp, cần phải được đầu tư nâng cấp nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại, cứu hộ, cứu nạn khi xảy ra thiên tai.

Nhìn chung các tuyến đường quốc lộ qua địa bàn tỉnh, các tuyến tỉnh lộ cơ bản đã được nhựa hóa, phục vụ tốt nhu cầu dân sinh và giao thương nội tỉnh và các tỉnh lân cận, tuy nhiên một số tuyến tỉnh lộ đã được đầu tư rất lâu, hiện nay hầu hết đã xuống cấp, gây khó khăn cho việc đi lại và công tác phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn khi thiên tai xảy ra. Đối với các tuyến đường huyện, đường xã, đường thôn, buôn, bon tỉ lệ nhựa hóa, cứng hóa vẫn còn thấp, đồng thời địa hình trên địa bàn tỉnh chủ yếu là đồi núi, dễ bị sạt lở, bồi lấp và chia cắt địa bàn, nên lĩnh vực giao thông vận tải của tỉnh cũng là một trong những lĩnh vực dễ bị tổn thương bởi yếu tố thiên tai.

8.2. Cơ sở hạ tầng công nghiệp

Trên địa bàn tỉnh có các khu kinh tế, khu công nghiệp đã và đang được triển khai xây dựng như: Khu công nghiệp Nhơn Cơ 95 ha (xã Nhân Cơ, huyện Đắk R’lấp); Khu công nghiệp Tâm Thắng 181 ha (xã Tâm Thắng, huyện Cư Jút); Cụm công nghiệp Đắk Ha 28,983 ha (xã Đắk Ha, huyện Đắk Glong); Cụm Công nghiệp Thuận An 52 ha (xã Thuận An, huyện Đắk Mil); Cụm công nghiệp Quảng Tâm 35 ha (Huyện Tuy Đức); Khu kinh tế cửa khẩu Đắk Puer, Khu kinh tế cửa khẩu Đắk Mil…

Sự phát triển cơ sở hạ tầng đô thị, các khu công nghiệp và các công trình xây dựng mới từng bước quy hoạch đồng bộ với tiêu thoát lũ, giảm thiểu sự úng ngập trong thành phố và vùng ngoại ô. Thiệt hại về tính mạng, nhà cửa, tài sản của dân và đặc biệt thiệt hại của các khu kinh tế, công nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân là mối quan tâm, lo lắng với tình trạng thiên tai ngày càng cực đoan như hiện nay. Đặc biệt đối với khu công nghiệp Nhân Cơ, nơi có các hồ chứa bùn đỏ, nguy cơ xảy ra sạt lở bờ hồ gây ô nhiễm môi trường là rất lớn khi thiên tai xảy ra.

8.3. Cơ sở giáo dục, đào tạo

Năm học 2021 - 2022, toàn tỉnh có 126 trường mầm non, tăng 3 trường so với năm học trước và có 233 trường phổ thông, bao gồm: 121 trường tiểu học, giảm 1 trường; 64 trường trung học cơ sở; 24 trường trung học phổ thông; 16 trường phổ thông cơ sở, tăng 01 trường và 08 trường trung học. Ngoài ra tỉnh còn có trường Cao đẳng Cộng đồng Đắk Nông, trường Trung cấp nghề Đắk Nông và một số số Trung tâm đào tạo nghề phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh và khu vực.

Học sinh: có 34.774 trẻ em đi học mẫu giáo, giảm 8,68% so với năm học trƣớc; 142.906 học sinh phổ thông, tăng 2,72%, bao gồm: 74.758 học sinh tiểu học, tăng 4,02%; 46.178 học sinh trung học cơ sở, tăng 1,03% và 21.970 học sinh trung học phổ thông, tăng 1,96%.[4] Đây là các đối tượng dễ bị tổn thương trong thiên tai.

 Ngoài ra cơ sở vật chất trường, lớp học mặc dù đã được tập trung đầu tư trong giai đoạn vừa qua, tuy nhiên do nguồn lực đầu tư còn nhiều hạn chế nên hiện nay vẫn chưa đáp ứng nhu cầu phát triển, nhất là ở các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Vẫn còn nhiều cơ sở tạm bợ, tỉ lệ phòng học bán kiên cố còn cao. Do vậy một số trường học vẫn là nơi dễ bị tổn thương khi xảy ra thiên tai, đồng thời chưa đáp ứng được nhu cầu là chỗ sơ tán dân khi thiên tai xảy ra.

8.4. Cơ sở y tế

Số cơ sở khám chữa bệnh do Nhà nước quản lý tại thời điểm 31/12/2021 là 79 cơ sở, bao gồm: 8 bệnh viện và 71 trạm y tế xã, phường, thị trấn. Số giường bệnh do Nhà nước quản lý tại thời điểm trên là 1.687 giường, tăng 2,62% so với năm 2020; trong đó: có 1.343 giường trong các bệnh viện, tăng 3,71%; 344 giường tại các trạm y tế xã, phường, thị trấn, tương đương so với cùng kỳ. Số giường bệnh bình quân 1 vạn dân năm 2021 là 19,4 giường bệnh, tăng so với bình quân 18,8 giường bệnh của năm 2020. Tại thời điểm 31/12/2021, số nhân lực y tế do Nhà nước quản lý là 1.763 người giảm 4,52% so với năm 2020; trong đó: có 1.563 người làm việc trong ngành y và 200 người làm việc trong ngành dược. Số bác sĩ bình quân 1 vạn dân đã giảm xuống 8,1 người năm 2021 so với 8,6 người năm 2020. Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ các loại vắc xin năm 2021 đạt 93,2%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng cân nặng theo tuổi năm 2021 là 17,9%, thấp hơn 0,4% so với năm 2020.[5]

 Đến nay hầu hết các bệnh viện đa khoa, chuyên khoa tuyến tỉnh, trung tâm y tế huyện, thành phố Gia Nghĩa, trạm y tế xã, phường, thị trấn đã được xây dựng kiên cố hóa, chống chịu được gió bão cấp 9 - 10 và cũng là nơi khám chữa bệnh kết hợp tránh trú gió bão cho nhân dân. Tuy nhiên, vẫn còn 4 Trạm y tế cấp xã chưa được đầu tư xây dựng kiên cố, chưa đảm bảo điều kiện khám chữa bệnh và tránh trú bão cho nhân dân. Tỷ lệ bác sĩ điều trị trên địa bàn tỉnh đạt 7,8 bác sĩ/vạn dân thấp hơn mức trung bình chung của toàn quốc (8 bác sĩ/vạn dân), điều đó cho thấy cơ sở vật chất, nhân lực ngành y tế của tỉnh vẫn chưa đảm bảo phục vụ nhu cầu nhân dân, nhất là trong các thời điểm xảy ra thiên tai.

IV. HIỆN TRẠNG CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THIÊN TAI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

- Công tác triển khai thực hiện các quy định pháp luật về phòng, chống thiên tai; xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng các chính sách về phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh được đảm bảo đầy đủ, kịp thời, đáp ứng yêu cầu.

- Hiện nay, Ban chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn (PCTT và TKCN) được thành lập từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã, phường, thị trấn và của một số Sở, Ban, ngành có liên quan. Chủ yếu hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm, hàng năm được kiện toàn và có sự phân công cụ thể nhiệm vụ của các thành viên trong Ban chỉ huy PCTT và TKCN. Văn phòng Thường trực Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh được thành lập là bộ phận chuyên trách giúp việc cho Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh, theo quy định tại Nghị định số 66/2021/NĐ-CP ngày 06/7/2021 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều.

- Trong những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, quyết liệt và sâu sát của Trung ương, Tỉnh uỷ, Ủy ban nhân dân tỉnh, Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh, cùng với những nỗ lực, cố gắng của các cấp, các ngành, các đoàn thể, các đơn vị liên quan và nhân dân trong tỉnh; công tác phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn trên địa bàn tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực; tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần phải triển khai khắc phục như: Kinh phí để nâng cao năng lực Văn phòng thường trực Ban chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn các cấp vẫn còn hạn chế; Cơ sở hạ tầng về phòng, chống thiên tai còn thiếu, chưa đồng bộ nên khả năng chống chịu với thiên tai rất hạn chế, dễ bị hư hỏng, thiệt hại. Lực lượng xung kích phòng, chống thiên tai cấp xã là lực lượng nòng cốt, rất quan trọng tại chỗ, tuy nhiên chưa được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng, phương tiện, trang thiết bị cần thiết nên chưa đem lại hiệu quả cao trong công tác ứng phó, khắc phục hậu quả khi thiên tai xảy ra…

- Công tác dự báo, cảnh báo sớm thiên tai trên địa bàn tỉnh Đắk Nông gặp nhiều khó khăn, một phần do điều kiện cơ sở vật chất chưa đảm bảo, mặt khác địa bàn rộng, địa hình chia cắt, tỉ lệ người dân tộc thiểu số cao nên mức độ chi tiết chưa đảm bảo, thông tin cung cấp đến người dân chưa kịp thời.

- Các đơn vị lực lượng vũ trang của tỉnh: Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, Công an tỉnh và các lực lượng của Quân khu 5, Bộ Quốc phòng đứng chân trên địa bàn tỉnh là lực lượng nòng cốt trong công tác phòng, chống thiên tai; chủ lực trong công tác ứng phó, cứu hộ, cứu nạn, và khắc phục bước đầu sau thiên tai trên địa bàn tỉnh, góp phần giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra. Các đơn vị tập trung lực lượng, phương tiện sẵn sàng khi có lệnh, chủ động ứng cứu trên từng địa bàn, nhất là các khu vực xung yếu, địa bàn trọng điểm khi có bão, mưa lũ, ngập lụt.

- Ủy ban nhân dân các địa phương có lực lượng xung kích phòng, chống thiên tai trên địa bàn. Ở huyện, có tổ, đội xung kích của lực lượng công an, huyện đội, cán bộ các cơ quan và đoàn thể. Ở xã, phường, thị trấn có Đội xung kích Phòng, chống thiên tai với lực lượng nòng cốt là dân quân tự vệ, thanh niên. Tuy nhiên hiện nay lực lượng xung kích phòng chống thiên tai các xã, phường, thị trấn chủ yếu bố trí cho đủ số lượng, việc điều động lực lượng này tham gia vào công tác phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn gặp nhiều khó khăn, trang thiết bị chưa được trang bị đầy đủ, kinh phí hoạt động còn hạn chế.

- Phương tiện cứu hộ, cứu nạn trên địa bàn tỉnh hiện nay chủ yếu là ca nô, xuồng, nhà bạt, phao tròn, phao áo, phao bè cứu sinh. Ca nô, nhà bạt do Ban chỉ huy PCTT và TKCN cấp tỉnh, cấp huyện quản lý được kiểm tra, bảo dưỡng thường xuyên. Xuồng, phao tròn, phao áo được trang bị cho các đội xung kích được xã, phường, xã, thị trấn quản lý. Nhìn chung trang thiết bị cứu hộ, cứu nạn còn thiếu về số lượng. Một số phương tiện không được bảo dưỡng định kỳ nên sẽ không phát huy tác dụng lúc cần thiết.

- Sở Công Thương chỉ đạo các doanh nghiệp thương mại trên địa bàn tỉnh hàng năm lập kế hoạch dự trữ hàng hóa thiết yếu để ứng phó thiên tai. Một số lượng lớn gạo, mì gói, nước uống và các hàng hóa, nhiên liệu được dự trữ trước mùa mưa bão. Sở Y tế tổ chức dự trữ đủ các cơ số thuốc để chữa bệnh, khử khuẩn nước, tiêu độc khử trùng vùng thiên tai. Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố Gia Nghĩa yêu cầu các doanh nghiệp thương mại trên địa bàn chuẩn bị sẵn một lượng hàng tiêu dùng thiết yếu để cung cấp khi cần thiết; vận động các hộ dân nơi thường bị cô lập do ngập lụt, dự trữ lương thực, thực phẩm đủ dùng trong 7 ngày; yêu cầu các doanh nghiệp xây dựng sẵn sàng thiết bị, xe máy để hỗ trợ ứng phó trong thiên tai khi cần thiết.

- Tỉ lệ người dân tham gia vào các lớp đào tạo, tập huấn nâng cao nhận thức cộng đồng và quản lý thiên tai dựa vào cộng đồng vẫn rất thấp. Phương tiện thông tin, truyền thông tới cộng đồng còn chưa hoàn thiện, đặc biệt là thông tin đến các vùng sâu, vùng xa. Nhận thức của một số bộ phận người dân còn hạn chế, bất cập, thiếu đồng đều, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng dễ bị tổn thương. Đa phần họ chỉ hiểu biết một cách chung chung, chứ chưa hiểu rõ bản chất và các phương thức phòng, chống thiên tai. Đồng thời họ cũng chưa nhận thức được vai trò của mình trong việc nâng cao năng lực phòng, chống thiên tai cho cộng đồng.

- Công tác truyền tin thiên tai: Ủy ban nhân dân các cấp và Ban Chỉ huy PCTT và TKCN các cấp có trách nhiệm phổ biến nội dung văn bản chỉ đạo, chỉ huy ứng phó thiên tai đến cộng đồng và người dân. Phương thức truyền phát văn bản chỉ đạo, chỉ huy ứng phó thông qua: Văn bản điện tử, fax, email, hệ thống truyền hình, phát thanh, hệ thống thông tin cảnh báo sớm, truyền đạt trực tiếp và các hình thức khác. Truyền tin về thiên tai và công tác chỉ đạo, chỉ huy đến tổ chức, cá nhân quản lý phương tiện hoạt động thông qua Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, hệ thống thông tin của Bộ đội Biên phòng, và các hệ thống thông tin khác như hộ gia đình, cá nhân.

- Hệ thống thủy lợi, thủy điện tham gia điều tiết lũ bảo đảm an toàn công trình, góp phần giảm ngập cho hạ du, bảo đảm hiệu quả cấp nước và phát điện. UBND các địa phương tổ chức vận hành điều tiết các hồ chứa theo phương án hàng năm, góp phần giảm lũ trong khu vực. Tuy nhiên, mỗi khi có mưa lớn, kéo dài thường bị ngập lụt trên diện rộng, nhiều khu dân cư bị chia cắt là do: (i) hệ thống trục thoát lũ bị giảm năng lực; (ii) một số đập dâng trên sông chưa đáp ứng khả năng tháo lũ; (iii) công trình giao thông thiếu khẩu độ thoát lũ; (iv) đô thị hóa nhanh, giảm diện tích trữ lũ; (v) khả năng cắt lũ các hồ chứa lớn còn thấp. Khi có nắng hạn, nguồn nước từ 280 hồ chứa chưa đáp ứng cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt ngày càng tăng. Hệ thống cung cấp nước sạch bằng các công trình cấp nước tập trung chỉ đáp ứng được một phần dân cư nông thôn. Hầu hết người dân nông thôn còn sử dụng nước từ sông, suối và các giếng khoan gia đình. Mỗi khi có nắng hạn gay gắt, nhiều hộ dân thiếu nước sinh hoạt; khi xuất hiện lũ lụt thường làm hư hỏng các đường ống dẫn nước từ các đập dâng về hộ gia đình, dẫn đến nhiều hộ dân không có nước sử dụng.

- Nội dung phòng, chống thiên tai đã được lồng ghép vào quy hoạch tỉnh, quy hoạch sử dụng đất và các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, đồng thời lồng ghép trong kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. Nội dung liên quan đến truyền thông, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giáo dục, đào tạo, nâng cao nhận thức, kỹ năng về phòng, chống thiên tai được lồng ghép vào các kế hoạch phát triển ngành thông tin, truyền thông, giáo dục và đào tạo, nông nghiệp và phát triển nông thôn. Nội dung liên quan đến quan trắc, dự báo, cảnh báo thiên tai được lồng ghép vào kế hoạch phát triển mạng lưới khí tượng thủy văn, công thương, nông nghiệp và phát triển nông thôn, giao thông vận tải.

- Công tác phục hồi, tái thiết sau thiên tai: Ngay khi kết thúc các đợt thiên tai, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các cơ quan kiểm tra, đánh giá thiệt hại, xác định ưu tiên và xây dựng kế hoạch khôi phục và tái thiết, huy động nguồn lực tại địa phương, bao gồm ngân sách dự phòng, đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức và nhân dân tổ chức khôi phục và tái thiết. Trường hợp nhu cầu vượt quá khả năng nguồn lực của địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh báo cáo Thủ tướng Chính phủ xin hỗ trợ. Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 967/2020/QĐ-UBND ngày 03/7/2020 về việc ban hành quy định về quy trình khắc phục hậu quả thiên tai trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo quyết liệt, kịp thời công tác phục hồi, tái thiết sau thiên tai nhằm sớm ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân. Các Sở, Ban, ngành, đoàn thể, Ủy ban nhân dân các cấp triển khai ngay công tác khắc phục hậu quả thiên tai, đặc biệt là sự tham gia của lực lượng vũ trang, Đoàn Thanh niên; công tác khắc phục sạt lở về giao thông, thủy lợi; cất nhà tạm cho dân, cấp phát hàng cứu trợ được kịp thời, sớm ổn định cuộc sống người dân.

 - Do đặc thù của Đắk Nông là địa bàn mới được chia tách và thành lập vào năm 2004, với điều kiện kinh tế xã hội gặp nhiều khó khăn. Tỉnh chưa thể tự cân đối ngân sách mà phải nhờ vào sự hỗ trợ từ ngân sách Trung ương để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Vì thế trong những năm qua nguồn tài chính đầu tư trong lĩnh vực phòng chống thiên tai chủ yếu được thực hiện lồng ghép từ nguồn ngân sách Trung ương hỗ trợ và các nguồn hỗ trợ, vốn vay ODA, WB. Ngân sách địa phương, Quỹ phòng chống thiên tai của tỉnh còn rất hạn hẹp, chủ yếu để xử lý các công việc cấp bách và khắc phục hậu quả thiên tai. Ngân sách chi cho các hoạt động tập huấn, tuyên truyền, diễn tập và mua sắm trang thiết bị, vật tư, phương tiện phòng chống thiên tai còn rất hạn chế. Ngân sách chi cho các hoạt động thường xuyên của Ban chỉ huy phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn các cấp còn hạn chế, đặc biệt là cấp huyện, xã.

V. XÁC ĐỊNH ĐÁNH GIÁ RỦI RO THIÊN TAI

Trong 10 năm gần đây trên địa bàn tỉnh Đắk Nông hạn hán, ngập lụt, lũ ống, lũ quét xảy ra thường xuyên hơn, phức tạp hơn về diễn biến và nghiêm trọng hơn về hậu quả. Bên cạnh đó tác động của sạt lở đất, dông, sét, lốc xoáy cũng thường xảy ra. Đặc điểm phân bố các thiên tai và những thiệt hại diễn ra trên địa bàn tỉnh Đắk Nông được thu thập, tổng hợp từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau trong những năm qua. Trên cơ sở tổng hợp tài liệu đã cho phép khắc hoạ một bức tranh tổng thể về hiện trạng các loại hình thiên tai thường xảy ra trên địa bàn tỉnh Đắk Nông như sau:

1. Về hạn hán (Cấp độ rủi ro thiên tai: cấp 2)

Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và các hiện tượng El Nino, La Lina khí hậu của tỉnh Đắk Nông diễn biến ngày càng cực đoan, tổng lượng mưa hàng năm giảm, mùa mưa kết thúc sớm, lượng mưa vào mùa khô chỉ chiếm 10% tổng lượng mưa năm, trong khi lượng bốc hơi lên đến 1.000 mm/năm. Cùng với tình trạng chặt phá rừng tự nhiên khai thác gỗ và chuyển đất rừng sang canh tác nông nghiệp diễn ra phổ biến làm cho trữ lượng nước mặt cũng như nước ngầm suy giảm nghiêm trọng, hạn hán xảy ra gay gắt, kéo dài liên tiếp, gây tổn thất nặng nề đến kinh tế - xã hội của tỉnh. Bên cạnh đó, do khó khăn về nguồn vốn, điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc xây dựng các công trình thủy lợi quy mô lớn, hầu hết các hồ chứa nước trên địa bàn tỉnh có dung tích nhỏ, đã được xây dựng khá lâu, nay đã hư hỏng, xuống cấp, tình trạng bồi lắng diễn ra nghiêm trọng làm cho dung tích giảm đi đáng kể. Vì vậy, năng lực tưới của các công trình thủy lợi rất hạn chế chỉ đáp ứng được trên 26% diện tích cây trồng toàn tỉnh. Theo số liệu thống kê thiệt hại do hạn hán, thiếu nước trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, hàng năm diện tích các loại cây trồng bị ảnh hưởng bởi hạn hán, thiếu nước là khoảng 3.000 ÷ 12.000 ha, trong đó phần lớn là diện tích cây trồng lâu năm (cà phê, tiêu), chiếm 80 ÷ 90% tổng diện tích ảnh hưởng, còn lại là diện tích lúa, màu. Tính từ năm 2010 trở lại đây, tổng diện tích các loại cây trồng bị ảnh hưởng do hạn hán, thiếu nước lên tới hơn 61.000 ha, bao gồm khoảng 2.000 ha lúa và 59.000 ha cây lâu năm và cây hàng năm khác, gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp và dân sinh trong vùng.

        Hạn hán ảnh hưởng nghiêm trọng trên diện rộng đối với hầu hết các xã của huyện Cư Jút, huyện Krông Nô, huyện Đắk Mil và một số xã thuộc các huyện còn lại trên địa bàn tỉnh như: xã Đắk N’Drung, xã Trường Xuân của huyện Đắk Song; xã Đắk Ngo, xã Quảng Tân của huyện Tuy Đức; xã Đắk Ru, xã Nghĩa Thắng, xã Đạo Nghĩa của huyện Đắk R’lấp; xã Quảng Sơn, xã Quảng Khê của huyện Đắk Glong; xã Đắk Nia của thành phố Gia Nghĩa.

2. Giông, lốc, sét, mưa đá (cấp độ rủi ro thiên tai: cấp 2)

Do hoàn lưu các đới gió trong thời gian chuyển mùa, cộng với đặc điểm địa hình tương đối phức tạp, độ cao trung bình từ 150 m ÷ 1.400 m so với mực nước biển, thêm vào đó địa hình bị chia cắt mạnh theo kiểu đồi bát úp với độ dốc lớn, núi xen kẽ thung lũng, độ ẩm trong đất, không khí thay đổi đột ngột hình thành những luồng gió lốc, giông sét kèm theo, thậm chí là mưa đá gây ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và tài sản người dân trong vùng. Đặc biệt với đặc điểm vị trí địa lý nằm ở khu vực Tây Nguyên ít bị tác động bởi bão và áp thấp nhiệt đới, kết cấu nhà dân thường không quan tâm đến gió bão, nên khi giông, lốc sét xảy ra thường gây thiệt hại lớn về nhà cửa. Theo số liệu thống kê, hàng năm trên địa bàn tỉnh có khoảng 5 ÷ 15 cơn lốc xoáy gây thiệt hại cho khoảng từ 50 ÷ 200 căn nhà bị tốc mái và nhiều diện tích cây trồng bị thiệt hại, thời gian thường vào các tháng 3, 4, 5, 6 là thời đoạn chuyển từ mùa khô sang mùa mưa. Các địa phương thường xuyên chịu ảnh hưởng gồm Krông Nô, Cư Jút, Đắk R’lấp, Tuy Đức, Đắk Mil, Đắk Glong.

3. Ngập úng, lũ lụt (Cấp độ rủi ro thiên tai: cấp 3)

Hiện tượng này thường xảy ra đối với khu vực phía Bắc của tỉnh, bao gồm huyện Krông Nô và Cư Jút (đặc biệt là Krông Nô) thuộc địa phận xã Buôn Chóah, Quảng Phú, Nâm N’Đir, Đức Xuyên, Đắk Nang huyện Krông Nô, các xã Ea Pô, Nam Dong, Tâm Thắng huyện Cư Jút. Đây là khu vực tương đối bằng phẳng, thấp, ven sông Krông Knô và sông Srêpôk, nguyên nhân gây ra ngập, lụt đối với khu vực này hoặc là do tập trung mưa trong lưu vực hoặc do lũ thượng nguồn đổ về, có khi kết hợp cả hai nguyên nhân khi có mưa kéo dài trên diện rộng. Đặc điểm ngập lụt ở khu vực này thường thì phạm vi ảnh hưởng rất rộng, thời gian ngập kéo dài, thiệt hại rất lớn về dân sinh, kinh tế, công tác cứu trợ, hỗ trợ khắc phục hậu quả gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt, khi lũ thượng nguồn đổ về, thường rất bất ngờ, không thể dự báo, cảnh báo trước, do vậy thiệt hại sẽ rất lớn.

Ngoài ra ở khu vực phía Nam tỉnh cũng thường xuyên ngập lụt như: thôn 11, thôn 12 xã Quảng Hòa, thôn Cây Xoài, xã Đắk R’Măng, thôn 2 xã Đắk Som huyện Đắk Glong, xã Đắk Ngo, huyện Tuy Đức, xã Đắk Sắk (thôn Đắk Sô) huyện Đắk Mil và một số vùng thấp trũng huyện Đắk R’lấp, tuy nhiên ở các khu vực này, tình trạng ngập lụt thường rút nhanh do địa hình dốc.

4. Lũ ống, lũ quét (cấp độ rủi ro thiên tai: cấp 2)

Toàn bộ diện tích tự nhiên của tỉnh Đắk Nông có địa hình rất phức tạp, độ cao trung bình từ 150 m đến 1.400 m. Phần lớn địa hình bị chia cắt mạnh theo kiểu đồi bát úp, độ dốc lớn. Thêm vào đó, tập quán sinh hoạt và canh tác của địa phương chủ yếu tập trung tại các vùng trũng, thấp, ven sông, suối. Khi mưa lớn, dòng chảy lũ thường chảy xiết và tập trung rất nhanh, tạo ra những trận lũ quét bất ngờ, khó đoán biết và dẫn đến những thiệt hại rất lớn. Nghiêm trọng hơn, các trận lũ quét trên địa bàn tỉnh thường xảy ra vào thời điểm ban đêm, do vậy rất khó khăn trong việc cảnh báo và chỉ đạo, thực hiện các biện pháp phòng, chống thiên tai. Ngoài ra, dân cư thường bố trí thành từng cụm riêng lẻ theo từng khu đồi, núi khép kín bởi các khe, suối (chủ yếu là huyện Đắk Song, huyện Đắk R’lấp và thành phố Gia Nghĩa). Do vậy, khi xảy ra lũ quét, cuốn trôi cầu, cống cắt đứt giao thông, cô lập hoàn toàn nhiều khu vực dân cư, khó khăn trong công tác cứu hộ, cứu trợ.

Địa bàn các huyện: Tuy Đức, Đắk R’lấp, Krông Nô, Đắk Glong, Đắk Song là những nơi tiềm ẩn lớn nguy cơ này.

5. Sạt lở đất (cấp độ rủi ro thiên tai: cấp 2)

Đắk Nông là một trong những tỉnh Tây Nguyên có đặc điểm nền địa chất tính liên kết kém, chủ yếu là bazan bở rời, nhất là khi có mưa lớn kéo dài, lượng nước trong đất bão hòa, dẫn đến sạt lở, trượt, nứt đất. Ngoài ra, do kiến trúc địa chất, địa tầng tạo nên các cấu trúc địa chất không đồng nhất, các cung trượt có quy mô và mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng

Loại hình thiên tai này xảy ra thường xuyên tại các khu vực phía Nam của tỉnh bao gồm các huyện Đắk Song, Đắk Glong, Đắk R’lấp, Tuy Đức và thành phố Gia Nghĩa. Các khu vực thường xuyên xảy ra sạt lở đất như xã Đắk Buk So, huyện Tuy Đức; thị trấn Kiến Đức, xã Nhân Cơ huyện Đắk R’lấp; Phường Nghĩa Phú, thành phố Gia Nghĩa; đường vào thủy điện Đồng Nai 3, 4, đường vào xã Quảng Hòa (khu vực đèo 52) huyện Đắk G’long. Hậu quả của hiện tượng thiên tai này để lại rất nhiều hệ lụy như làm chết người, sập nhà, hư hại nhiều hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi… Ngoài ra, trên địa bàn một số xã dọc sông Krông Nô thuộc huyện Krông Nô thường xuyên xảy ra sạt lở bờ sông, các xã ảnh hưởng nghiêm trọng như Đắk Nang, Quảng Phú, Buôn Choah, Đức Xuyên, Nâm N’Đir.

6. Mưa lớn (cấp độ rủi ro thiên tai: cấp 2)

Mùa mưa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông kéo dài 6 tháng từ tháng 5 đến tháng 10 trùng với mùa gió mùa Tây Nam hoạt động. Lượng mưa mùa mưa chiếm khoảng 82÷88% lượng mưa năm. Tháng 8 và tháng 9 là những tháng có lượng mưa lớn nhất. Tổng lượng mưa năm tại một số trạm đo mưa chính trên địa bàn tỉnh Đắk Nông dao động trong khoảng 1.600÷2.600 mm/năm. Trong đó, vùng phía Bắc lượng mưa trung bình từ 1.600÷2.000 mm/năm, vùng phía Nam có lượng mưa trung bình khá lớn từ 2.400÷2.600 mm/năm, vùng trung tâm có lượng mưa trung bình từ 2.000÷2.200 mm/năm.

Theo số liệu mưa thực đo tại các trạm trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, hàng năm có khoảng 5 ÷ 12 trận mưa to (có lượng mưa trong vòng 24 giờ lớn hơn 50 mm), trong đó có khoảng 2 ÷ 5 trận mưa rất to (có lượng mưa trong vòng 24 giờ lớn hơn 100 mm). Và thời gian xuất hiện trận mưa to đến rất to thường rơi vào các tháng từ tháng V ÷ X hàng năm, trùng với giai đoạn mùa mưa hàng năm. So sánh giữa các vùng trong tỉnh, khu vực phía Nam tỉnh (trạm Đắk Nông) là khu vực có số lượng, tổng lượng các trận mưa lớn hơn khu vực phía Bắc (trạm Đắk Mil), có năm tại trạm Đắk Nông đo được 17 trận mưa có lượng mưa 1 ngày lớn hơn 50mm, trong số đó có khoảng 3 ÷ 5 trận có lượng mưa 1 ngày lớn hơn 100 mm. Đây là trận mưa gây nên tình trạng lũ, lũ ống, lũ quét và ngập lụt trên địa bàn các huyện của tỉnh.

7. Ảnh hưởng của bão, áp thấp nhiệt đới (cấp độ rủi ro thiên tai: cấp 3)

Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, tần suất xuất hiện bão, áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) đổ bộ trực tiếp không có, nhưng ảnh hưởng gián tiếp của bão, ATNĐ gây ra các loại hình thiên tai khác như mưa lớn trên diện rộng, ngập úng, lũ quét, sạt lở đất, giông sét...

Bão và áp thấp nhiệt đới thường xuất hiện vào mùa mưa từ tháng 9 – 12. Trung bình mỗi năm chịu tác động trực tiếp của 4 - 5 cơn bão.       

VI. CÁC NỘI DUNG NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG THIÊN TAI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

1. Các nội dung nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp thực hiện

1.1. Xây dựng chương trình công tác chỉ đạo, điều hành phòng ngừa và ứng phó với thiên tai

- Tổ chức theo dõi chặt chẽ diễn biến từng tình huống thiên tai, sự cố, dự báo đúng tình hình, chỉ đạo ứng phó kịp thời, hiệu quả, khắc phục khẩn trương hậu quả thiên tai, sự cố xảy ra.

- Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Quốc gia về Phòng, chống thiên tai, Ủy ban Quốc gia ứng phó sự cố thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh liên quan đến công tác phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn; tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động, nâng cao hiệu quả phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, trong đó xác định phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên, liên tục cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

- Triển khai, phổ biến và ban hành các văn bản thực hiện chỉ đạo của Trung ương và của các cấp chính quyền trong tỉnh. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và xây dựng mới các văn bản về công tác phòng, chống thiên tai đáp ứng với yêu cầu thực tế trong điều kiện biến đổi khí hậu, phù hợp với các loại hình thiên tai và đặc điểm thiên tai trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.

- Xây dựng kế hoạch và bố trí nguồn lực để triển khai thực hiện theo quy định tại Điều 31, Nghị định số 66/2022/NĐ-CP ngày 06/7/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều.

- Tiếp tục triển khai thực hiện các nội dung Chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai; Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 18/6/2018  của Chính phủ về công tác phòng, chống thiên tai trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.

         - Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ tại Quyết định số 2000/QĐ-UBND ngày 31/12/2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc phê duyệt Kế hoạch phòng, chống thiên tai trên địa bàn tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2021-2025 và Quyết định số 1544/QĐ-UBND ngày 16/9/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông về việc cập nhật, bổ sung nhiệm vụ thực hiện Kế hoạch Phòng, chống thiên tai đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.

- Chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch, lộ trình cụ thể để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo từng bước triển khai đầu tư nâng cao năng lực phòng, chống thiên tai, ứng phó sự cố và tìm kiếm cứu nạn nhằm đạt được yêu cầu, tiến độ.

- Tổ chức Hội nghị tổng kết công tác phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn năm 2022 và triển khai nhiệm vụ năm 2023 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.

 - Xây dựng, điều chỉnh và hoàn thiện kế hoạch Phòng, chống thiên tai, Phương án Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn ứng với cấp độ rủi ro thiên tai các cấp, các ngành trong tỉnh. Đặc biệt, rà soát, hoàn thiện phương án ứng phó với từng tình huống thiên tai cụ thể có thể xảy ra trên địa bàn, phương án sơ tán dân trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp để đảm bảo an toàn trong chỉ đạo, ứng phó thiên tai, đồng thời đảm bảo an toàn chống dịch.

          1.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực chủ đạo, chỉ huy và đào tạo nguồn nhân lực

 - Kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và cơ quan điều phối liên ngành về phòng, chống thiên tai theo hướng chuyên trách, tinh gọn, hiệu quả trên cơ sở sắp xếp lại bộ máy hiện có, không tăng biên chế. Đồng thời, kiện toàn Ban chỉ huy PCTT và TKCN các cấp, các ngành để thống nhất chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ ở mỗi cấp, mỗi ngành. Phân công nhiệm vụ cho các thành viên phụ trách từng địa bàn, khu vực trọng điểm, xung yếu và đảm bảo chế độ thông tin báo cáo giữa Ban chỉ huy PCTT và TKCN các cấp, các ngành.

          - Lập kế hoạch đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tại Văn phòng thường trực các cấp. Đầu tư các trang thiết bị, cơ sở vật chất và các công cụ hỗ trợ ra quyết định tại Văn phòng thường trực các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh để đáp ứng ngay nhiệm vụ trước mắt và phù hợp lâu dài.

          1.3. Nâng cao năng lực cảnh báo, dự báo thiên tai

          - Đẩy mạnh xã hội hóa hệ thống mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn, giám sát biến đổi khí hậu; từng bước hoàn thiện, hiện đại hóa hệ thống quan trắc, dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn theo hướng tự động hóa. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống quan trắc chuyên ngành, trong đó ưu tiên quan trắc mưa, lũ, hạn hán, mực nước trên các sông suối, hồ đập trên địa bàn tỉnh.

- Xây dựng hệ thống cảnh báo thiên tai đa mục tiêu, tận dụng tối đa cơ sở hạ tầng hiện có, ưu tiên khu vực ven sông, suối và các khu vực thường xảy ra thiên tai.

- Đầu tư nâng cấp trang thiết bị, công nghệ hỗ trợ theo dõi, phân tích, dự báo, cảnh báo thiên tai theo thời gian thực.

- Nâng cao năng lực dự báo, đặc biệt là dự báo ngắn hạn cho cơ quan dự báo trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là dự báo ngắn hạn phục vụ công tác chỉ đạo ứng phó và vận hành điều tiết hồ chứa giảm lũ cho hạ du.

- Xây dựng hệ thống thông tin cảnh báo thiên tai, kết hợp truyền thanh cơ sở, nhà ở cho dân khi phải sơ tán kết hợp nhà văn hóa, sinh hoạt cộng đồng, biển báo khu vực thiên tai nguy hiểm, công trình phòng chống thiên tai quy mô nhỏ.

- Xây dựng hệ thống thông tin, cảnh báo sớm đa thiên tai tại cộng đồng, có tính đến khả năng tiếp cận của tất cả các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, điều kiện về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và tập quán sinh hoạt của người dân ở từng vùng, miền khác nhau.

  1.4. Xác định, đánh giá, phân vùng rủi ro thiên tai để theo dõi, giám sát và chủ động ứng phó

 Tiếp tục triển khai Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày 07/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc “Phê duyệt chương trình cập nhật phân vùng rủi ro thiên tai, lập bản đồ cảnh báo thiên tai, đặc biệt là các thiên tai liên quan đến bão, nước dâng do bão lũ, lũ quét, sạt lở đất hạn hán xâm nhập mặn” trên địa bàn tỉnh Đắk Nông với các mục tiêu sau:

- Chủ động rà soát các điểm có nguy cơ cao về sạt lở, lũ quét, ngập lụt để xây dựng phương án ứng phó kịp thời, có hiệu quả. Kiên quyết di dời các hộ dân tại các vùng có nguy cơ cao về thiên tai đến nơi an toàn.

-  Xác định mức độ hiểm họa, phơi bày, khả năng dễ bị tổn thương, khả năng chống chịu, thích ứng đối với từng loại thiên tai chi tiết cho các huyện trong tỉnh làm cơ sở để xác định, phân cấp, thành lập các bản đồ phân vùng rủi ro thiên tai chi tiết đến huyện, xã.

- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện việc xây dựng bản đồ phân vùng rủi ro thiên tai hạn hán, ngập lụt, sạt lở đất cho các địa phương trong tỉnh. Phân vùng rủi ro thiên tai và lập bản đồ cảnh báo hạn hán, lũ lụt, sạt lở đất và sụt lún đất do mưa là hết sức cần thiết nhằm mục tiêu đánh giá được mức độ rủi ro đối với hạn hán, lũ lụt, sạt lở đất và sụt lún đất do mưa tại các khu vực trong tỉnh; xây dựng được các bản đồ cảnh báo thiên tai lũ quét, sạt lở đất và sụt lún đất do mưa thời gian thực.

1.5. Tuyên truyền phổ biến, nâng cao nhận thức về thiên tai và Quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng

- Triển khai đồng bộ và hiệu quả Kế hoạch số 577/KH-UBND ngày 20/8/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh triển khai Quyết định số 553/QĐ-TTg ngày 06/4/2021 của Thủ tướng Chính phủ giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.

- Nâng cao nhận thức về thiên tai, năng lực ứng phó thiên tai cho đội ngũ làm công tác phòng, chống thiên tai, cán bộ chính quyền cơ sở và người dân vùng thường xuyên chịu tác động của thiên tai, góp phần xây dựng cộng đồng cấp xã, huyện an toàn trước thiên tai, có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu; hình thành văn hóa phòng ngừa, chủ động và tích cực tham gia vào công tác phòng chống thiên tai của đại đa số người dân nhằm góp phần thực hiện tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới, giảm thiểu đến mức thấp nhất thiệt hại về người, tài sản, môi trường do thiên tai.

- Hướng dẫn và huy động người dân trực tiếp tham gia vào các hoạt động phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai trên địa bàn cấp xã như diễn tập phòng tránh thiên tai, đánh giá rủi ro thiên tai, các sự kiện liên quan.

- Thông qua các phương tiện truyền thông và các cơ quan thông tin đại chúng, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, nâng cao nhận thức cho người dân về các loại hình thiên tai thường xảy ra và phương pháp phòng chống; hiểu biết những rủi ro thiên tai có thể gây ra cho con người, vật nuôi, hoa màu, nhà cửa, các lĩnh vực kinh tế và cơ sở hạ tầng.

- Đẩy mạnh phổ biến pháp luật, kiến thức phòng, chống thiên tai cho toàn xã hội để nhân dân hiểu đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật, nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi, hình thành ý thức chủ động thực hiện các biện pháp phòng, chống thiên tai trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, xã hội.

- Tổ chức đào tạo, đào tạo lại cho cán bộ làm công tác phòng, chống thiên tai; đưa kiến thức về phòng, chống thiên tai vào chương trình đào tạo chính quy và hoạt động ngoại khóa trong các trường học.

- Đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức, ngôn ngữ, phương thức truyền thông để phổ biến kiến thức phòng, chống thiên tai tới cộng đồng phù hợp với từng vùng, từng đối tượng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; sử dụng các phương tiện truyền thông, truyền thống, lưu động, mạng xã hội tiếp nhận thông tin phản hồi của người dân; triển khai các chiến dịch quốc gia vì một xã hội an toàn trước thiên tai.

- Huy động sự tham gia của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp và người dân trong quá trình xây dựng chiến lược, hoạch định chính sách và triển khai kế hoạch, chương trình, dự án trong hoạt động phòng, chống thiên tai.

- Hoàn thiện nội dung tài liệu, các bộ công cụ hỗ trợ, đào tạo, tập huấn, truyền thông về kiến thức đánh giá rủi ro thiên tai và kỹ năng phòng, chống thiên tai cho cộng đồng. Tổ chức hướng dẫn, tập huấn, diễn tập cho cán bộ, tình nguyện viên tham gia công tác phòng, chống thiên tai ở cơ sở và người dân.

- Hoàn thiện và thực thi có hiệu quả kế hoạch phòng, chống thiên tai các cấp, nhất là đối với cấp xã; thúc đẩy phong trào xây dựng làng, xã an toàn trước thiên tai trong chương trình xây dựng nông thôn mới.

- Lồng ghép nội dung phòng, chống thiên tai vào các hoạt động tại cộng đồng, các sự kiện văn hóa, biểu diễn văn nghệ của xã, thôn, bản; xây dựng pano, áp phích, bản đồ và bảng hướng dẫn, các bước cơ bản về phòng ngừa thích nghi, ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai trên địa bàn cấp xã; phổ biến kỹ năng xây nhà, chòi chống lũ cho người dân.

- Tổ chức cho cộng đồng dân cư tham gia đánh giá rủi ro thiên tai thông qua hoạt động vẽ bản đồ phân vùng rủi ro thiên tai cấp xã, xác định các đối tượng, khu vực có nguy cơ cao chịu rủi ro do thiên tai để chủ động phòng, tránh.

- Thực hiện đào tạo kiến thức về thiên tai và phương pháp phòng, chống trong các trường phổ thông trung học, dạy bơi cho lứa tuổi thanh thiếu niên, tổ chức lớp hướng dẫn kỹ năng phòng, chống thiên tai cho các đối tượng dễ bị tổn thương như phụ nữ, người già, trẻ em và người khuyết tật.

1.6. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế trong phòng, chống thiên tai

Ưu tiên nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ viễn thám, đầu tư trang thiết bị công nghệ quan trắc, theo dõi, giám sát, công cụ hỗ trợ phục vụ điều hành, ứng phó với thiên tai và tìm kiếm cứu nạn đảm bảo an toàn, hiệu quả nhất, cụ thể:

- Hiện đại hóa công cụ hỗ trợ chỉ đạo điều hành theo thời gian thực đáp ứng yêu cầu ứng phó kịp thời, chính xác, hiệu quả; đẩy nhanh kết nối trực tuyến giữa các cơ quan chỉ đạo, chỉ huy phòng, chống thiên tai của tỉnh với các địa phương.

- Nghiên cứu, ứng dụng thử nghiệm công nghệ tiên tiến trong quan trắc, cảnh báo mưa, lũ, lũ quét, sạt lở đất, sạt lở bờ sông và cấp nước tưới, tiêu tại các vùng thường bị thiên tai, hạn hán; phát triển, ứng dụng công nghệ, vật liệu mới trong xây dựng công trình phòng, chống thiên tai.

- Điều chỉnh thời vụ sản xuất, đổi mới kỹ thuật canh tác, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển giống cây trồng và vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên và diễn biến thiên tai của từng vùng.

- Ứng dụng công nghệ, khoa học vào công tác cảnh báo sớm phòng, chống thiên tai; nâng cao nhận thức cộng đồng và quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng; nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý thiên tai tại địa phương các cấp; Tiến tới việc quản lý cơ sở dữ liệu bằng GIS, điện thoại thông minh, thiết bị không người lái, các thiết bị cảnh báo sớm... thân thiện với môi trường, giám sát bằng hình ảnh tại các vị trí xung yếu, trung tâm chỉ đạo, điều hành phòng chống thiên tai.

- Thúc đẩy hợp tác với các tỉnh và hợp tác quốc tế, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm với các tỉnh bạn, nước bạn trong phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai và tìm kiếm cứu nạn.

1.7. Công tác cứu hộ, cứu nạn, bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhân dân và Nhà nước

- Tiến tới xây dựng một lực lượng chuyên nghiệp, chuyên trách cùng phương tiện chuyên dụng chắc chắn sẽ ứng phó và tiến hành nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ khẩn trương, hiệu quả. Tổ chức việc cứu hộ, cứu nạn một cách bài bản, có tổ chức, để mang lại hiệu quả cao và tránh những rủi ro đáng tiếc.  

- Tổ chức diễn tập phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn trước mùa mưa lũ với các tình huống giả định đối với cấp huyện, xã nhằm nêu cao tinh thần trách nhiệm, năng lực cứu hộ, cứu nạn cho các lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách và ý thức của Nhân dân đối với công tác Phòng, chống thiên tai.

-  Tăng cường đầu tư nguồn lực, hiện đại hóa đồng bộ hệ thống trang bị, phương tiện tìm kiếm cứu nạn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

-  Xây dựng kế hoạch, chuẩn bị lực lượng, phương tiện, vật chất phục vụ cho công tác phòng, chống thiên tai theo phương châm "4 tại chỗ" đạt hiệu quả. Xây dựng, tổ chức diễn tập phương án cứu nạn, cứu hộ có huy động lực lượng, phương tiện của các cơ quan, tổ chức có liên quan để thống nhất công tác phối hợp, quy trình tham gia cứu nạn, cứu hộ tại những sự cố, tai nạn.

- Đảm bảo tốt an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trước, trong và sau vùng bị thiên tai. Chú ý sử dụng lực lượng phải phù hợp, ưu tiên các trọng điểm thiên tai lớn, bất ngờ; cần phối hợp hiệp đồng chặt chẽ giữa lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động, trong đó lực lượng tại chỗ là chủ yếu, lực lượng chủ lực làm nòng cốt.

- Triển khai việc xây dựng và củng cố Đội xung kích phòng, chống thiên tai cấp xã theo Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 09/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng, củng cố và nâng cao năng lực cho lực lượng xung kích phòng, chống thiên tai cấp xã trên toàn tỉnh nhằm nâng cao năng lực, chủ động phòng, chống thiên tại thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm tổn thất về người và tài sản của nhân dân và Nhà nước, từng bước xây dựng cộng đồng, xã hội an toàn trước thiên tai.

1.8. Công tác cứu trợ, hỗ trợ và khắc phục hậu quả thiên tai

        - Ngay sau khi xảy ra thiên tai, Ban chỉ huy PCTT và TKCN các cấp cần tiến hành thống kê, đánh giá thiệt hại gửi cho Ban chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh tổng hợp, báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh và Ban chỉ đạo Trung ương về Phòng chống thiên tai, đồng thời trình các cấp có thẩm quyền xem xét hỗ trợ cho người dân từ các nguồn kinh phí Quỹ Phòng chống thiên tai, Ngân sách tỉnh, Ngân sách Trung ương và các nguồn kinh phí hợp pháp khác.

- Tiếp tục tập trung, rà soát, hoàn thiện thể chế, các quy định pháp luật về quy trình, thủ tục liên quan đến công tác khắc phục, hỗ trợ, tái thiết sau thiên tai để đảm bảo công tác khắc phục hậu quả thiên tai được minh bạch, nhanh chóng, kịp thời.

- Các tổ chức, cá nhân cùng chung tay, vận động, quyên góp, động viên chia sẻ với đồng bào vùng bị thiên tai trong việc cứu trợ thiên tai với tinh thần “lá lành đùm lá rách” thể hiện tình cảm sâu sắc của mỗi người dân, mỗi tổ chức đối với cộng đồng khi gặp hoạn nạn.

          - Tổ chức thăm hỏi, cứu trợ kịp thời, huy động lực lượng tại chỗ giúp đỡ người dân bị thiệt hại do thiên tai khắc phục hậu quả, sớm ổn định đời sống và sản xuất.

- Hỗ trợ các địa phương giám sát dịch bệnh, xử lý môi trường, dự trù hóa chất, trang thiết bị y tế đáp ứng việc vệ sinh môi trường, phòng, chống dịch bệnh, không để dịch bệnh bùng phát với địa phương sau khi xảy ra thiên tai.

          - Tiếp nhận hỗ trợ lương thực từ nguồn dự trữ quốc gia cấp cho nhân dân và hỗ trợ tài chính từ nguồn ngân sách dự phòng (nếu có) để tu sửa, khôi phục công trình hạ tầng thiết yếu như giao thông, thủy lợi, điện; hỗ trợ giống cây trồng để giúp địa phương phục hồi sản xuất và ổn định đời sống nhân dân; hỗ trợ bằng tiền đối với các hộ có người chết, bị thương, các hộ bị mất nhà ở hoặc nhà ở bị hư hại theo quy định.

          - Hướng dẫn người dân xây dựng nhà ở an toàn phòng, tránh bão, lũ; rà soát các chính sách xã hội, dân tộc và nhà ở, có chính sách phù hợp hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở an toàn; tiếp tục rà soát, chủ động di dời dân cư ra khỏi các khu vực nguy hiểm, nguy cơ mất an toàn cao, nhất là khu vực bị ảnh hưởng bởi mưa lũ , khu vực có nguy cơ xảy ra sạt lở đất, lũ ống, lũ quét.

          1.9. Một số biện pháp cụ thể ứng phó với các loại hình thiên tai thường gặp trên địa bàn tỉnh Đắk Nông (Phụ lục 01 kèm theo).

          2. Các nội dung nhiệm vụ cụ thể

(Phụ lục 02 và 03 chi tiết kèm theo)

VII. NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH THỰC HIỆN

- Kêu gọi sự hỗ trợ của Trung ương, các cấp các ngành, các tổ chức xã hội và sử dụng ngân sách tỉnh để đầu tư các công trình phòng, chống thiên tai, thủy lợi, giao thông thực hiện dự án di dời dân, triển khai thực hiện Đề án Nâng cao nhận thức cộng đồng và quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh.

- Cân đối Ngân sách được giao các Sở, Ban, ngành, đơn vị, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố Gia Nghĩa, xã, phường, thị trấn: đầu tư, mua sắm các phương tiện, trang thiết bị phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn theo phương châm “Bốn tại chỗ”, trang bị những điều kiện cần thiết phục vụ công tác tập huấn, thông tin, tuyên truyền, phòng, chống thiên tai - tìm kiếm cứu nạn; đầu tư nâng cấp, sửa chưa cơ sở hạ tầng để tăng khả năng chống chịu trước thiên tai, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra.

- Lồng ghép nguồn kinh phí từ các dự án khác thực hiện hoạt động phòng chống giảm nhẹ thiên tai ứng phó biến đổi khí hậu.

- Vận động các tổ chức, cá nhân hỗ trợ cho dự án phòng chống thiên tai ứng phó biến đổi khí hậu.

- Sử dụng hiệu quả các nguồn kinh phí trung ương, kinh phí địa phương, Quỹ Phòng chống thiên tai, quỹ cứu trợ… và các nguồn đóng góp tự nguyện theo quy định của Chính phủ và của tỉnh trong phòng chống và ứng phó thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.

- Ngoài ra, công tác phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn còn được thực hiện theo phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.

VIII.  TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1.  Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Thường trực Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh)

- Tham mưu Ủy ban nhân dân về công tác phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn trên địa bàn tỉnh; tổ chức trực ban theo quy chế, phối hợp với UBND các huyện, thành phố Gia Nghĩa để nắm bắt tình hình thiên tai và công tác chỉ đạo, xử lý kịp thời nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong việc phòng, chống, ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai. Đôn đốc các ngành, địa phương thực hiện tốt các hoạt động phòng, chống thiên tai theo quy định.

- Chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan rà soát, hoàn thiện và tham mưu cho UBND tỉnh điều chỉnh các văn bản, cơ chế và chính sách về phòng, chống thiên tai trên địa bàn tỉnh nếu xét thấy cần thiết.

 - Chủ trì, phối hợp với các Sở, Ban, ngành và các địa phương theo dõi, đôn đốc kiểm tra và tổng hợp đánh giá kết quả thực hiện Kế hoạch phòng, chống thiên tai. Xây dựng khung đánh giá việc thực hiện Kế hoạch của các Sở, Ban, ngành, các địa phương để có cơ sở đề xuất UBND tỉnh chỉ đạo, điều hành.

 - Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các địa phương chuyển đổi mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp để chủ động thích ứng, giảm thiệt hại do thiên tai, gắn xây dựng cộng đồng an toàn trước thiên tai với xây dựng nông thôn mới bền vững.

- Chủ trì, phối hợp với các Sở, Ban, ngành, UBND các huyện, thành phố tổ chức kiểm tra an toàn hồ đập thủy lợi trên địa bàn tỉnh. Đẩy nhanh tiến độ đầu tư, nâng cấp, khắc phục sự cố hồ đập; công trình phòng, chống thiên tai đảm bảo an toàn trong mùa mưa lũ; chỉ đạo xây dựng, triển khai phương án bảo vệ trọng điểm hồ đập, công trình phòng, chống thiên tai trên địa bàn tỉnh. Thực hiện các phương án phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, khôi phục sản xuất.

- Tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm về quản lý chất lượng công trình xây dựng đối với các hoạt động đầu tư xây dựng, sửa chữa, nâng cấp các công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về thủy lợi nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, đảm bảo an toàn công trình, nâng cao nhận thức, năng lực ứng phó của người dân ở vùng hạ du đập. Tổ chức rà soát quy trình vận hành hệ thống công trình thủy lợi, quy trình vận hành điều tiết hồ chứa nước.

- Tổ chức rà soát, kiểm tra đề xuất kinh phí khắc phục sửa chữa kịp thời những hư hỏng, sự cố công trình, đảm bảo an toàn đập trong mùa mưa lũ.

- Đôn đốc xây dựng kế hoạch phòng, chống thiên tai của các Sở, Ban, ngành, UBND các huyện, thành phố gắn với Kế hoạch phòng, chống thiên tai cấp tỉnh, Trung ương.

- Phối hợp với Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Công an tỉnh, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, các cơ quan liên quan điều phối các hoạt động mang tính chất liên ngành, liên vùng trong Kế hoạch Phòng, chống thiên tai cấp tỉnh.

 - Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn UBND các huyện, thành phố Gia Nghĩa bám sát phương án, kế hoạch phòng, chống thiên tai đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, phối hợp trong việc xử lý sự cố, khắc phục hậu quả đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai; có kế hoạch phòng, chống dịch bệnh cho cây trồng và vật nuôi ở những vùng xảy ra thiên tai.

- Ứng dụng khoa học công nghệ trong việc xây dựng hệ thống theo dõi, kiểm soát diễn biến thiên tai và an toàn công trình phòng chống thiên tai phục vụ hiệu quả công tác điều hành, ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai.

- Tổ chức xây dựng cơ sở dữ liệu, các công cụ hỗ trợ điều hành phòng, chống thiên tai để chủ động triển khai thực hiện khi có tình huống xảy ra, nhất là đối với lũ lớn, lũ quét, sạt lở đất, ngập úng, hạn hán.

- Tổ chức trực ban, theo dõi chặt chẽ diễn biến các đợt thiên tai và thực hiện chế độ báo cáo nghiêm túc theo đúng quy định; bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt.

- Chủ trì và phối hợp với các địa phương, các Sở, Ban ngành trong tỉnh thực hiện Đề án Nâng cao nhận thức cộng đồng và Quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.  

2. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, Công an tỉnh

- Chỉ đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị trực thuộc tổ chức lực lượng, sẵn sàng trang thiết bị, lực lượng, vật tư chuyên dùng để ứng phó, tìm kiếm cứu nạn và khắc phục hậu quả thiên tai; xây dựng kế hoạch diễn tập tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ. Hỗ trợ các địa phương, đơn vị trong công tác tổ chức tập huấn, huấn luyện, diễn tập phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ, đặc biệt xây dựng lực lượng tại chỗ, trang bị phương tiện, thiết bị, công cụ, hướng dẫn kỹ năng để ứng phó cứu nạn, cứu hộ kịp thời, hiệu quả các tình huống sự cố, thiên tai.

- Tổ chức huấn luyện cứu hộ, cứu nạn cho các đối tượng theo đúng Chương trình huấn luyện cơ bản; huấn luyện lực lượng kiêm nhiệm của các cơ quan đơn vị nắm chắc tính năng, sử dụng thành thạo các trang thiết bị hiện có, là lực lượng nòng cốt, chuyên trách thực hiện nhiệm vụ ứng phó sự cố thiên tai.

- Chỉ đạo các cơ quan quân sự địa phương tham mưu cho UBND cùng cấp thực hiện công tác phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn theo lĩnh vực được phân công.

- Thường xuyên kiểm tra và có kế hoạch tổ chức tập kết, quản lý sử dụng các phương tiện, trang thiết bị để tham gia kịp thời, có hiệu quả công tác tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ khi xảy ra thiên tai; đặc biệt là tại các khu vực xung yếu. Sẵn sàng phối hợp với các đơn vị, hỗ trợ, chi viện cho cấp huyện ngay khi có yêu cầu. Bố trí lực lượng, phân luồng điều tiết giao thông ở những tuyến đường ngập lụt, hư hỏng, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các công trình trọng điểm, tài sản của Nhân dân, Nhà nước và Doanh nghiệp.

3. Sở Tài nguyên và Môi trường

- Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan lập kế hoạch, tổ chức tăng cường kiểm tra, tuần tra hoạt động khai thác tài nguyên trên các sông suối để có biện pháp chấn chỉnh, xử lý kiên quyết các trường hợp khai thác không phép, trái phép gây sạt lở bờ sông, cản trở dòng chảy.

- Triển khai thực hiện Quyết định số 05/2020/QĐ-TTg ngày 31/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định mực nước tương ứng với các cấp báo động lũ trên các sông thuộc phạm vi cả nước.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt đầy đủ các nội dung Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 25/9/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khí tượng thủy văn đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Rà soát, bổ sung quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch tài nguyên nước và các quy hoạch liên quan đến phòng, chống thiên tai. Kiểm soát chặt chẽ việc khai thác cát, sỏi, tài nguyên khoáng sản, nước ngầm không làm tăng nguy cơ sạt lở đất ở vùng núi, sạt lở bờ sông, bờ suối.

4. Sở Giao thông vận tải

- Lập kế hoạch, phương án phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn trên các tuyến đường quốc lộ được ủy thác quản lý và các tuyến đường tỉnh lộ năm 2023. Tổ chức thực hiện kế hoạch, phương án PCTT và TKCN của Sở Giao thông Vận tải nhằm đảm bảo giao thông thông suốt trên các tuyến đường quốc lộ được ủy thác quản lý, các tuyến đường tỉnh lộ;

 - Chỉ đạo các đơn vị có liên quan, nhà thầu quản lý đường thực hiện tốt công tác quản lý đường, công tác sửa chữa hư hỏng trên các tuyến đường quốc lộ được ủy thác quản lý, các tuyến đường tỉnh lộ trước, trong và sau mùa mưa bão năm 2023 để giữ đường và đảm bảo giao thông không bị ách tắc;

- Khi có thiên tai, sự cố xảy ra làm ảnh hưởng đến công trình giao thông trên các tuyến đường quốc lộ được ủy thác quản lý, các tuyến đường tỉnh lộ, tổ chức triển khai lực lượng phối hợp với Công an tỉnh, chính quyền địa phương phân luồng, điều phối, hướng dẫn giao thông, huy động phương tiện, vật tư ứng cứu kịp thời để đảm bảo an toàn giao thông; tổ chức khắc phục, sửa chữa các hư hỏng, thiệt hại công trình đường bộ do thiên tai gây ra;

- Phối hợp với Cục Quản lý đường bộ III (đối với các tuyến đường quốc lộ qua địa phận tỉnh Đắk Nông được ủy thác quản lý), các địa phương và đơn vị có liên quan ứng cứu trên các tuyến đường huyện, xã, đường đô thị, đường chuyên dùng; hướng dẫn địa phương giải pháp khắc phục, để đảm bảo giao thông trên tuyến.

5. Sở Xây dựng

- Rà soát, chỉnh sửa, bổ sung các kế hoạch xây dựng vùng, quy hoạch đô thị, nông thôn phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội và điều kiện thiên tai trên địa bàn tỉnh; quy hoạch hệ thống tiêu nước, thoát nước đô thị đảm bảo chống ngập úng.

- Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan thường xuyên kiểm tra các nhà, xưởng, công trình, các công trường đang thi công (nhất là vấn đề an toàn đối với giàn giáo, cần cẩu...) qua đó đôn đốc nhắc nhở chủ đầu tư trong quá trình thi công phải có phương án ứng phó kịp thời với tình huống bất lợi khi thiên tai xảy ra, đảm bảo an toàn cho công trình xây dựng.

6. Sở Công Thương

- Chủ trì, phối hợp với Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh và các cơ quan, đơn vị, có liên quan thực hiện công tác kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về quản lý an toàn đập, hồ chứa thủy điện năm 2022 theo Nghị định số 114/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 của Chính phủ về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước; Thông tư 09/2019/TT-BCT ngày 08/7/2019 của Bộ Công Thương quy định về quản lý an toàn đập, hồ chứa thủy điện. Yêu cầu các Chủ sở hữu đập, hồ chứa thủy điện xây dựng quy chế phối hợp vận hành hồ chứa theo quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa được duyệt.

- Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị có liên
quan để thực hiện công tác tuyên truyền, hướng dẫn, đôn đốc thực hiện công tác
Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn theo các văn bản chỉ đạo của Trung ương và UBND tỉnh nhằm nâng cao năng lực ứng phó kịp thời đối với các tình huống thiên tai, giảm thiểu đến mức thấp nhất những thiệt hại về người và tài sản do thiên tai gây ra.

- Tăng cường công tác chỉ đạo các đơn vị trong ngành công thương trên
địa bàn tỉnh rà soát, củng cố, kiện toàn nguồn lực để sẵn sàng ứng phó với các
tình huống thiên tai.

- Xây dựng kế hoạch dự trữ hàng hóa phòng, chống thiên tai năm 2023, tăng cường công tác phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý thị trường nhằm ngăn chặn, xử lý kịp thời tình trạng đầu cơ, găm hàng, bán hàng kém chất lượng, nâng giá để trục lợi khi có thiên tai xảy ra.

7. Sở Kế hoạch và Đầu tư

- Hướng dẫn các Sở, Ban, ngành và UBND các huyện, thành phố lồng ghép nội dung phòng chống thiên tai vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh.

- Cân đối, bố trí nguồn vốn đầu tư thuộc thẩm quyền để tham mưu thực hiện các dự án cấp bách về phòng, chống thiên tai theo đúng quy định của Luật Đầu tư công và các quy định pháp luật có liên quan.

- Kêu gọi, hướng dẫn thủ tục đầu tư cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu đầu tư vào hoạt động phòng, chống thiên tai trên địa bàn tỉnh.

8. Sở Tài chính

- Tại thời điểm xây dựng dự toán, trên cơ sở đề xuất của cơ quan, đơn vị cấp tỉnh về nhu cầu kinh phí thực hiện Kế hoạch này (kèm theo văn bản chủ trương của cơ quan có thẩm quyền), Sở Tài chính tổng hợp, tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh bố trí dự toán cho các cơ quan, đơn vị để thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

- Căn cứ ý kiến thẩm định của cơ quan quản lý chuyên ngành và văn bản đề nghị của các huyện, thành phố, Sở Tài chính tổng hợp, tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định hỗ trợ cho các địa phương gặp khó khăn trong cân đối ngân sách để khắc phục thiệt hại do thiên tai gây ra theo đúng quy định về quy trình khắc phục hậu quả thiên tai trên địa bàn tỉnh Đắk Nông và các văn bản pháp luật hiện hành.

9. Sở Thông tin và Truyền thông

- Hướng dẫn, định hướng các cơ quan truyền thông tuyên truyền, phổ biến rộng rãi việc thực hiện pháp luật về phòng, chống thiên tai như: Luật Phòng, chống thiên tai, các Nghị định hướng dẫn thi hành và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan... nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về các loại hình thiên tai, biện pháp phòng tránh, phổ biến kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm công tác phòng, chống các loại hình thiên tai đến mọi tầng lớp người dân.

- Tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo và trực tiếp hướng dẫn, đôn đốc các cơ quan liên quan đảm bảo thông tin thông suốt trong mọi tình huống từ Trung ương đến địa phương, chú trọng củng cố mạng thông tin cơ sở đã được Sở Thông tin và Truyền thông lắp đặt bố trí tại các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh.

-  Tổ chức thực hiện phương án đảm bảo thông tin liên lạc 24/24h, kịp thời trong mọi tình huống từ tỉnh đến huyện, thành phố Gia Nghĩa và các xã, phường, thị trấn; đặc biệt chú trọng các vùng thường xuyên xảy ra mưa lớn, lũ quét, sạt lở đất, bị chia cắt, cô lập. Hướng dẫn, đôn đốc các đơn vị viễn thông, bưu chính trên địa bàn tỉnh đảm bảo liên lạc, kịp thời chuyển thông tin phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành việc phòng tránh, ứng phó với mưa lớn, lũ, lũ quét.

10. Sở Lao động, Thương binh và Xã hội; Hội Chữ thập đỏ tỉnh

- Hội Chữ thập đỏ: Có kế hoạch đảm bảo dự trữ và chuẩn bị vật tư, thuốc, nhiên liệu, hàng hóa, lương thực, thực phẩm và kinh phí cần thiết để đảm bảo điều kiện sinh hoạt, đời sống, hỗ trợ cứu tế cho người dân, xử lý vệ sinh môi trường, phòng, chống dịch bệnh và an toàn cộng đồng trong vùng xảy ra thiên tai.

- Sở Lao động, Thương binh và Xã hội: Nghiên cứu, tham mưu triển khai các chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bị ảnh hưởng bởi thiên tai và chính sách đảm bảo quyền lợi của người tham gia công tác phòng, chống thiên tai. Chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đột xuất kịp thời, hiệu quả. Tập huấn chuyên môn, đẩy mạnh hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức và năng lực ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai cho các đối tượng dễ bị tổn thương như: trẻ em, người cao tuổi và người khuyết tật.

11. Sở Y tế

- Chỉ đạo, tăng cường các y, bác sỹ của các bệnh viện, trung tâm y tế để thực hiện cứu chữa người thương vong tại các khu vực xảy ra thiên tai; chuẩn bị cơ số thuốc, dụng cụ y tế tổ chức thực hiện phương án cấp cứu, điều trị, chăm sóc sức khỏe Nhân dân, vệ sinh môi trường, nguồn nước sinh hoạt, phòng chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm và khắc phục hậu quả thiên tai.

- Chuẩn bị đầy đủ trang thiết bị, phương tiện; tổ chức kiểm tra và bố trí lực lượng phòng, chống dịch bệnh sau thiên tai. Thành lập và củng cố các đội vệ sinh phòng dịch, làm sạch môi trường, đội sơ cấp cứu ở cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã.

12. Sở Giáo dục và Đào tạo

- Chỉ đạo kiểm tra, rà soát phương án đảm bảo an toàn phòng chống thiên tai tại các trường học, cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh thuộc phạm vi quản lý; thường xuyên theo dõi các bản tin dự báo, cảnh báo thời tiết, thiên tai của Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia, chỉ đạo của Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh để kịp thời, chủ động cho học sinh nghỉ học, không đến trường nhằm bảo đảm an toàn cho học sinh, thầy cô giáo khi mưa lũ, bão, áp thấp nhiệt đới xảy ra.

- Chủ trì, phối hợp với các Sở, Ban ngành có liên quan xây dựng kế hoạch lồng ghép, tích hợp nội dung phòng, chống thiên tai vào chương trình đào tạo, giảng dạy trong nhà trường.

13. Đài Khí tượng thủy văn tỉnh

- Thực hiện tốt công tác dự báo, phát các bản tin dự báo, cảnh báo về mưa lũ, áp thấp nhiệt đới, bão, lũ quét,... phù hợp với từng vùng trên địa bàn tỉnh; phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh tham mưu UBND tỉnh quy định mực nước tương ứng với các cấp báo động lũ trên các sông, suối trên địa bàn tỉnh.

- Cung cấp kịp thời và chính xác số liệu khí tượng thủy văn theo quy định và yêu cầu đột xuất, bất thường cho Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh, Đài Phát thanh và Truyền hình, các doanh nghiệp, công ty thuỷ điện đóng trên địa bàn tỉnh để chủ động chỉ đạo điều hành, ứng cứu trong mọi tình huống thiên tai xảy ra.

- Cập nhật thời tiết hàng ngày trên địa bàn tỉnh Đắk Nông lên trang thông tin điện tử (Website) tại địa chỉ http://kttvdaknong.com.vn để các tổ chức, cá nhân biết chủ động phòng, tránh.

14. UBND các huyện, thành phố Gia Nghĩa

 - Hoàn thiện Kế hoạch phòng, chống thiên tai tại địa phương.

 - Nâng cao nhận thức cộng đồng và quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng, chú trọng lực lượng tại cơ sở, cộng đồng theo phương châm “4 tại chỗ”.

   - Tổ chức hoàn thiện đầy đủ các mục tiêu, nội dung của kế hoạch và các chương trình, đề án, dự án phòng chống, giảm nhẹ thiên tai thuộc phạm vi trách nhiệm quản lý.

- Bố trí ngân sách hàng năm và huy động các nguồn lực hợp pháp khác để thực hiện nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của địa phương và kế hoạch phòng chống thiên tai các cấp ở địa phương.

 - Cập nhật, bổ sung và hoàn chỉnh các kế hoạch, phương án phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tại địa phương. Chuẩn bị lực lượng, phương tiện, trang thiết bị sẵn sàng để huy động ứng cứu kịp thời khi xảy ra thiên tai.

  - Thường xuyên kiểm tra các vị trí xung yếu trên địa bàn để đề xuất giải pháp phòng ngừa và ứng phó nhằm đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản cho người dân, doanh nghiệp và Nhà nước.

 - Tăng cường tổ chức các lớp tập huấn, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, kỹ năng trong phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn trên địa bàn các xã. Hướng dẫn, hỗ trợ người dân các biện pháp chằng chống nhà cửa an toàn nhằm phòng tránh tốc mái, sụp đổ khi xảy ra giông, gió, lốc xoáy.

- Tiếp tục xây dựng và cũng cố đội xung kích phòng, chống thiên tai cấp xã theo Quyết định số 08/QĐ-TWPCTT ngày 27/3/2020 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai về việc ban hành hướng dẫn xây dựng và củng cố Đội xung kích phòng, chống thiên tai cấp xã.

- Chủ trì, phối hợp với Sở Giao thông vận tải và các Sở, Ban, ngành có liên quan lập kế hoạch, phương án phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn trên các tuyến đường do địa phương quản lý; chủ động triển khai công tác cứu hộ giao thông trên các tuyến đường được giao quản lý và phối hợp với Sở Giao thông vận tải, các đơn vị có liên quan tổ chức cứu hộ trên các tuyến tỉnh lộ đi qua địa bàn.

 - Xây dựng Kế hoạch và đôn đốc việc thu, nộp Quỹ Phòng chống thiên tai theo Nghị định số 78/2021/NĐ-CP ngày 01/8/2021 của Chính phủ về thành lập và quản lý Quỹ phòng, chống thiên tai.

- Khi thiên tai xảy ra ở địa phương nào và tùy theo cấp độ rủi ro thiên tai, các địa phương, đơn vị liên quan nghiêm túc thực hiện theo phương án PCTT và TKCN đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Chủ động phối hợp với lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn, sử dụng các loại vật tư, phương tiện, lực lượng tại chỗ của địa phương, đơn vị mình để tổ chức di dời dân ra khỏi khu vực trọng điểm xung yếu, đảm bảo tính mạng, tài sản của Nhà nước và Nhân dân. Kiên quyết xử lý các trường hợp không chấp hành chỉ đạo, hướng dẫn của Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh, chính quyền địa phương, vi phạm quy định pháp luật trong phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.

- Đảm bảo cung cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm, thuốc y tế, chăm sóc sức khỏe cho người dân, vệ sinh môi trường, phòng ngừa dịch bệnh, bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương; bảo vệ các khu vực, công trình trọng điểm, tham gia cứu hộ, cứu nạn khi có sự cố công trình và giúp đỡ các gia đình bị nạn.

- Tăng cường tổ chức các lớp tập huấn, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, kỹ năng trong phòng, chống, ứng phó thiên tai, cứu hộ, cứu nạn trên địa bàn. Hỗ trợ, hướng dẫn Nhân dân các biện pháp chằng chống nhà cửa an toàn nhằm phòng tránh tốc mái, sụp đổ khi xảy ra giông, gió, lốc xoáy. Kiểm tra và có kế hoạch chặt tỉa, đốn hạ cây xanh không an toàn, không để xảy ra tình trạng ngã đổ khi xảy ra giông, gió, mưa lớn.

15. Các Sở, Ban, ngành, đoàn thể

Theo chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao đã chủ động thực hiện các nhiệm vụ về phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn; tổ chức lồng ghép kế hoạch về phòng, chống thiên tai vào các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đơn vị; chi viện cho các đơn vị khác khi có yêu cầu.

16. Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi tỉnh Đắk Nông

- Kiện toàn Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn của công ty. Xây dựng kế hoạch, phương án phòng, chống lụt bão; phòng, chống hạn hán năm 2023. Phân công nhiệm vụ cụ thể đối với từng thành viên. Tổ chức trực ban nghiêm túc 24/24 giờ để theo dõi, thông báo, cảnh báo và tham mưu kịp thời các biện pháp phòng, chống, ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai có thể xảy ra.

- Kiểm tra, rà soát, đánh giá toàn bộ các công trình; báo cáo các Sở, Ban, ngành để có biện pháp xử lý cấp bách trước mùa mưa lũ 2023.

- Đôn đốc các nhà thầu thi công đẩy nhanh tiến độ xây dựng, sửa chữa các công trình, dự án, hoàn thành trước khi mùa mưa đến. Ưu tiên sửa chữa các công trình như: Sửa chữa cống, tràn; xử lý bè mảng cỏ; xử lý thấm mái đập,...

- Kiểm tra, rà soát, thống kê, có kế hoạch mua sắm trang thiết bị, máy móc, vật tư, vật liệu phân bổ cho các đơn vị trực thuộc phục vụ công tác ứng cứu đập, công tác phòng, chống hạn hán.

17. Các doanh nghiệp thủy điện, khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh

- Thực hiện đúng quy định tại Nghị định số 114/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 của Chính phủ về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước; Thông tư số 09/2019/TT-BCT ngày 08/7/2019 của Bộ Công Thương quy định về quản lý an toàn đập, hồ thủy điện; Thông tư số 42/2019/TT-BCT ngày 18 tháng 12 năm 2019 sửa đổi, bổ sung một số quy định về chế độ báo cáo định kỳ tại các Thông tư do Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành hoặc liên tịch ban hành; quy trình vận hành hồ chứa đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt; kiểm tra, đánh giá tình trạng an toàn đập thuỷ điện, có kế hoạch sửa chữa; chuẩn bị vật tư, thiết bị phục vụ công tác phòng, chống lũ trong mùa mưa lũ năm 2023.

- Xây dựng, đánh giá, rà soát sửa đổi bổ sung một số nội dung trong quy chế phối hợp giữa doanh nghiệp với Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh, Sở, Ban, ngành có liên quan về công tác phòng, chống thiên tai.

- Chuẩn bị đầy đủ các vật tư, vật liệu, dụng cụ dự phòng, huy động cán bộ kỹ thuật, lực lượng, phương tiện ứng cứu sẵn sàng khi có sự cố công trình xảy ra. Tổ chức diễn tập phương án ứng phó các tình huống thiên tai và xả lũ khẩn cấp.

18. Đài Phát thanh và Truyn hình tỉnh, Báo Đắk Nông

 Tăng cường công tác thông tin, truyền thông về phòng, chống thiên tai, phối hợp với các cơ quan tăng cường phổ biến kiến thức, hướng dẫn kỹ năng phòng ngừa, ứng phó thiên tai cho nhân dân trong tỉnh.

Trên đây là Kế hoạch Phòng, chống thiên tai trên địa bàn tỉnh Đắk Nông năm 2023. Yêu cầu các Sở, Ban, ngành, UBND các huyện, thành phố Gia Nghĩa và các đơn vị có liên quan triển khai thực hiện; trong quá trình thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc báo cáo về UBND tỉnh (thông qua Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) để xem xét, xử lý./.



[1] Số liệu dân số được tổng hợp từ Niên giám thống kê tỉnh Đắk Nông năm 2021

[2] Số liệu được tổng hợp từ Niên giám thống kê tỉnh Đắk Nông năm 2021

[3] Số liệu trong Kế hoạch Chương trình Mở rộng quy mô vệ sinh và nước sạch nông thôn dựa trên kết quả, vay vốn Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2020 triển khai trên địa bàn tỉnh Đắk Nông (Kèm theo Quyết định 591/QĐ-UBND ngày 28/4/2020 của Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Nông).

[4] Số liệu được tổng hợp từ Niên giám thống kê tỉnh Đắk Nông năm 2021

[5] Số liệu được tổng hợp từ Niên giảm thống kê tỉnh Đắk Nông năm 2021

 

  Tải file đính kèm

Lượt xem: 481

BAN CHỈ HUY PHÒNG CHỐNG THIÊN TAI VÀ TÌM KIẾM CỨU NẠN TỈNH ĐẮK NÔNG